SÀI GÒN NĂM XƯA
Vương Hồng Sến
PHẦN THỨ NĂM
Cổ tích chung quanh Sài Gòn Chợ Lớn
Trước năm 1954, lăng miếu cổ tích trong Nam
được Trường Viễn Đông Bác Cổ giao phó cho quản thủ Pháp của Viện Bảo
Tàng Sài Gòn chăm nom. Đến năm 1954 thì Pháp giao quyền lại cho Viện
Khảo cổ Việt Nam quản thủ. Trào Pháp bơ thờ không lưu tâm nhiều tới cổ
tích trong Nam, chê không cổ như đền Đế Thiên (Cao Miên) lại không thuần
túy như các đền chùa ngoài Bắc (Bút Tháp) hoặc ở miền Trung (chùa Thiên
Mụ). Khi làm sổ liệt kê vào sách mục lục cổ tích, họ bỏ sót rất nhiều;
nay Chính phủ ta chưa chỉnh đốn kịp, nên có nhiều người thừa dịp mua rẻ
đất thổ mộ, vận động xin phép được cất nhà rồi xin bốc mả cải táng. Nếu
Chánh phủ không khéo ngăn ngừa kịp lúc thì chẳng bao lâu nữa, chung
quanh Sài Gòn tuy có vẻ phong quang hơn nhưng các cổ tích sẽ theo lưỡi
cuốc vô tình của thợ xây nền nhà mà lui vào dĩ vãng hết. Nhiều lăng mộ
có vẻ hùng vĩ, có thể nên để lại làm kiểu mẫu cho khoa kiến trúc lấy đó
biết được cách thức bắt chỉ phong tô kiểu vở thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Không khéo ủng hộ và duy trì kịp thời, thì miền Nam có tiếng là rất
nghèo về mỹ thuật và cổ tích, sẽ nghèo nàn về mỹ thuật và cổ tích hơn
nữa, một phần lỗi là chưa làm sổ tu chỉnh liệt kê và bảo tồn cổ tích
được chu đáo hơn.
Đường Công Lý nối dài,
mé tay mặt khi ta đi từ Sài Gòn lên sân bay, cách nay lối hai mươi lăm
năm, có một người ngoại kiều mua một sở đất trên có một ngôi mộ lâu đời
không có ai nhìn nhận cả. Đơn xin bốc mả không ai ngăn trở. Quá hạn kỳ
chủ đất thuê người phá mộ. Gặp một mão bằng vàng, một sợi dây đai cũng
bằng vàng, nút áo cũng bằng vàng, lược giát đầu bằng đồi mồi còn nguyên
vẹn, cũng bịt bằng vàng nốt, đem ra cân thử, cân được trên một ký lô
vàng ròng (lối 30 lượng). Báo đồn rùm lên, chừng ấy mới thấy một người
cháu họ ra mặt, nhờ trạng sư đem vụ ra tòa phân xử. Tòa phú cho tham
biện Pháp tỉnh Gia Định điều tra. Ông Dufour là người ngay thẳng, làm
phúc trình trả lời; việc lâu năm tôi không còn giữ được nguyên bản, nhớ
mại mại có câu như vầy:“Nên lập ủy ban
cân kỹ lưỡng các món đã tìm thấy trong mộ. Hãy định theo giá thị trường,
đổi ra bạc băng, ký quỹ vào kho cung thác sở (caisse des dépôts et
consignation) chờ lịnh tòa. Nếu người khiếu nại có đủ bằng cớ chứng minh
mmình là con cháu chắt của kẻ bạc phước nằm dưới nấm mộ kia, thì cho y
lãnh của ấy về (đã tính ra tiền). Nếu chứng cứ không minh bạch, khi ấy
sẽ tùy Tòa định đoạt. Dầu chi đi nữa, những trang sức phẩm tìm được, nên
ký thác cho Viện Bảo Tàng sở tại triển lãm cho bá tánh xem… Vì tánh
chất công cộng nên không tính ra bạc số tiền công làm nên món đồ. Chúng
ta, người Pháp, đã mang tiếng nhiều rằng “đến đây với danh hiệu kẻ đi
cướp nước”. Không nên vì một lý do gì mà tư vị, ủng hộ bất chánh một
“tiểu bối” “ăn cướp hạng nhì” mượn danh đại Pháp, bóc lột người bản xứ!”Tiếc
thay, Việt Bảo tàng không có phần. Các bảo vật ấy về Viện không bao
lâu, kế gặp chiến tranh, ông quản thủ Pháp cất kín các vật trong một tủ
sắt kiên cố, chở tủ ấy xuống gửi tại tòa hành chính tỉnh Long Xuyên,
tưởng vậy là chắc, không dè đến năm 1945, một nhóm người xâm đoạt luôn
cả tủ cả bảo vật, Viện Bảo tàng mất hết không còn món nào.
Đây
là một vụ thứ hai về phá mộ xưa. Hôm ấy nhằm ngày 16 tháng 11 năm 1953.
nhân danh đại diện quản thủ Pháp Viện Bảo tàng Sài Gòn, tôi đến làng
Hòa Hưng, vào một ngõ trong hẻm chi nhánh đường Lê Văn Duyệt coi cho
người ta bốc một ngôi mả vôi vô thừa nhận, để đất trống cho tân nghiệp
chủ tiện xây cất nhà cửa. Mộ này đã bị phá từ mấy ngày trước chỉ chừa
cái hòm chưa cạy nắp, những chi tiết quan trọng, mộ bia, liễn đối đều
không còn nên không làm sao rõ được chức phận, phẩm tước của người quá
cố. Duy thấy chiếc quan tài bằng cây huỳnh đàng mà đoán địa vị người ấy
khi xưa ắt cũng lớn lắm, giàu có lắm. Gỗ trai, huỳnh đàng, người mình
thích đóng hòm cũng phải. Cứ bằng chứng nơi chiếc quạt tre phất giấy dầu
trong tay người chết, quạt còn xòe được như mới, chữ còn sắc sảo vì
viết bằng một chất phấn kim khí sáng sáng như chì rõ ràng đề “Gia Khánh
đệ … niên”[77]thì đoán hòm chôn đã được tròm trèm một trăm năm mươi năm
rồi, thịt rã nát thành đất đen. Xương còn nguyên nhưng thâm xì, nhưng lạ
thay, trên trán còn rõ ràng một miếng da người thấy lỗ chân lông nhầy
nhầy nhìn còn được, cạnh gò má xương màu đỏ đỏ như nhuộm máu, buột miệng
anh cò lai hôm ấy thốt ra một câu tôi nhớ mãi: “accident d’auto”. Quên
nói hôm ấy có một ông bác sĩ và một phó cảnh sát trưởng đến chứng kiến
với tôi vụ cải táng này. Và trong ý anh cò lai, vì chưa thấy chiếc quạt
“Gia Khánh” nên đinh ninh thây ma nằm đó chắc của một người mới chết gần
đây vì tai nạn xe cộ, ô tô húc mà thôi! Mà lạ thật! Những cái gì cho ta
trường cửu, thì trở nên tro bụi: vàng xi, nút áo bạc, mấy nút bằng pha
lê biến thành chai (verre). Trái lại, những vật ta cho rằng mau mục, mau
tan rã còn lại ràng ràng như mới: vỏ cau ăn trầu, chiếc chiếu lót dưới
người chết còn đủ màu nhuộm ô xanh ô đỏ, thậm chí giấy tiền vàng bạc còn
phân biệt để nguyên xấp, bên vàng bên bạc rành rạnh, không hư; trong
tay, như đã nói, cầm chiếc quạt “Gia Khánh” gói trong vuông khăn nhiễu
điều, cây quạt này xòe được lúc trong hòm lấy ra, đến cái chốt nan quạt
cũng chẳng hề hấn gì (duy sau này cất để đến nay, giấy quạt khô trở nên
giòn không mở ra được nữa). Trên bụng còn một gói, giở ra là trầu, thuốc
xỉa (thành tro bụi), cau ăn, xác còn cứng chắc, một ống bạc đựng vôi đã
hen rỉ, cả các món đựng trong một đãy trầu bằng gấm có thêu kim tuyến
ràng ràng, một khăn đỏ khác gói hai cây viết lông, quản bút bằng trúc
mới tinh, ngòi bút bằng lông mềm mại, khi lấy trong hòm ra, ước chừng
lấy chấm mực viết như chơi, nhưng ra ío giây lát sau thì lông bút rớt ra
khỏi quản. Ngay chỗ háng, giữa xương hai đùi, có một chùm lông rõ rệt.
Râu đen, tóc dài đều còn nhưng sau râu lại nhét vào mồm, không để tự
nhiên dài che cổ, ngực? Phong tục này xin hỏi các bậc lão thành. Răng
nhuộm đen, chứng tỏ người chết là người Việt gốc gác không miền Bắc thì
miền Trung, đầu chít khăn quấn tay, áo mặc nhiều lớp chồng lên nhau, vẫn
còn nguyên xé nghe tèn tẹt. Chiếc lược đồi mồi vẫn chưa mục, và hai món
này: khăn, lược chứng tỏ cho ta biết người quá vãng không có phẩm tước
triều đình (nên không đội mão). Dầu chi cũng là một người phong lưu khác
giả nên có đem theo bút lông, cây xỉa răng bạc, cây móc tai dát vàng và
bao đựng thuốc xỉa, thuốc hút, đãy đựng trầu ăn. Oâ hô! Giàu sang một
đời, nằm xuống đất nay đã gần một trăm năm mươi năm, thế mà chưa được
yên thân! Cháu con lâu đời át đã lui về quê cũ Bắc hoặc Trung, còn sót
những đứa ở lại đây, một nắm xương tàn đối với chúng sao trọng bằng tiền
bạc nên chúng đã ký tên bán đất, phú cho phu phá mồ đào cốt, cải táng
về đâu mặc kệ. Ván hòm cứng thật. Ngoài da mốc mốc, đất ăn xầy xầy,
tưởng bở. Chạm sâu một phân tây, cứng rắn vô cùng. Thậm chí, cái máy
khoan điện, thuở nay nào biết kiêng nể thứ gì, sức bực sắt đá nó còn
nhai như bánh bột thế mà máy khoan đâm không thủng nắp hòm! Khoét được
lỗ nào chỉ đút sâu lỗ đó, chung quanh vẫn y nguyên. Khoan cả mấy giờ
không xuể đâu vào đâu, phu phá mồ “xổ nho” nghe mà phát mệt! Thét rồi,
chúng chạy về lấy búa thầu và đục thép cỡ lớn ra nói chuyện với huỳnh
đàng! Nghĩ mà tội cho người nằm đó! Sắm hòm cây danh mộc tưởng chừng đủ
chịu đựng với thời gian, không dè kẻ thù ngày nay là đức cháu bất hiếu,
một tên võ phu tay cầm búa thầu đục thép. Không một tiếng não bạt ê a,
không một câu kinh an ủi. Nằm trơ đó mà chờ người ta mổ búa lớn vào nắp
vào đầu. Nhà chức trách cũng bất lực, vô phương cứu cấp, mục kiến cho
đám phu phá mồ dang thần lực nện búa thầu vào đầu đục, búa nào búa nấy
nháng như búa Thiên Lôi. Hòm mở toang ra, chúng hốt lấy hốt để, từ hòm
huỳnh đàng chuyển cốt qua một cái quách nhỏ bằng cây tạp dầu. Chiếc hòm
quý huỳnh đàng mới làu làu phu phá mồ thừa hưởng, bán manh bán mủn cho
phường dị đoan đem về là ghế xây, bàn cầu cơ. Quách dầu, vài đứa đem vùi
một chỗ vô danh, chờ ngày không mục nát tự nhiên, thì đến năm cải táng
nhường chỗ cho lớp khác. Chung quy có mớ đồ vật ký thác cho Viện Bảo
tàng còn lưu lại hậu thế, kỳ dư trở về tro bụi. Nếu chánh phủ không sớm
thảo điều lệ bảo vệ các cổ tích, lăng cũ, mộ xưa, cấm mua bán đất thổ
mộ, liệt kê các ngôi mả bằng ô dước, vôi đá tại Việt Nam thì chẳng bao
lâu nữa chung quanh Sài Gòn, Gia Định, Chợ Lớn không còn sót lại một cái
nào khỏi bị lưỡi cuốc phu phá mồ đưa về dĩ vãng.Ngày
trước đất rộng, dân gian tín ngưỡng, sợ chùa, miễu, mộ phần. Ngày nay
đất chật, sự tin tưởng thần thánh, quỷ ma đã bớt, nhất là những đất có
chôn mả thường bán rẻ tiền, miếng nào còn sót lại trong đô thành không
chầy thì kíp cũng có người mua, dời mộ xây cất dinh thự, lâu đài, ít lâu
người cố cựu cũng không làm sao nhớ nổi .
Đại lược các cổ tích còn sót lại và ngày nay còn thấy là:
Lăng
Thượng Công Lê Văn Duyệt tại chợ Bà Chiểu .
Tả quân từ trần 1832, năm
1835 mộ bị san bằng phẳng, núm mộ bị xiềng lòi tói sắt. Năm 1848, vua Tự
Đức tha tội truyền xây lại như cũ. Năm 1868, Tả quân được truy phục
“Vọng các công thần, chưởng Tả quân Bình Tây Tướng quân Quận Công” và
được vào “Miếu Trung Hưng Công Thần”.
Lăng
Phò mã Hậu quân Võ Tánh
Mộ chánh tại Bình Định, đây là mộ chôn hình
nhân bằng sáp, vì người tự thiêu trên giàn hỏa, không còn thây thi. Mất
năm Tân Dậu, ngày hai mươi bảy tháng năm năm 1801. lăng nằm trong vùng
đất quân sự, vào cửa phải xin phép trước. Xưa tuy không vẻ nguy nga
nhưng trang nghiêm. Nay tiêu điều lạnh lẽo. Trước năm 1942 còn sót lại
bốn cây đại thọ đứng tứ trụ bốn góc lăng, là bốn cây thông do Gia Long
sắc chỉ dạy trồng. Mỗi cây lớn cả ôm, da trổ da quy nứt lục lăng trông
rất ngộ. Binh Nhật chiếm Sài Gòn, đục thông lấy tòng hương làm chết khô
bốn cây cổ thụ, nay còn sót một gốc khô đứng sừng sựng, cảnh tang thương
càng làm thêm đau lòng người hiếu cổ.
Lăng
Long Vân hầu Trương Tấn Bửu , đường Trương Tấn Bửu.
Mất năm Minh Mạng
thứ 8, ngày 2 tháng 8 năm 1827. vì người quản thủ không có óc thẩm mỹ,
sửa chữa miếu kiểu ngoại lai, mộ phần trét xi măng, sơn vôi lố lăng
trông xốn mắt.-Lăng Bình Giang Bá Võ Di
Nguy tại Phú Nhuận , trong hẻm một con đường mang tên của Ông nhưng con
cháu đã bán đất chung quanh lăng, còn chừa nội phần mộ, kề bên có một
chuồng heo dơ bẩn và một ngôi miếu thờ không đáng danh là miếu thờ. Đất
là đất của Vua, con cháu công thần ăn hoa lợi. Nay trở nên đất của Nhà
nước, tại sao ban quản thủ không xin thủ tiêu tờ mua bán đất bất hợp
pháp[78](Bình Giang Quận công tử trận tại Thị Nại năm 1801).
Lăng
Bá Đa Lộc (Eùvêque d’Adran), thường gọi “Lăng Cha Cả” ở Tân Sơn Nhất,
đường lên sân bay. (hình trên ) .
Mất năm 1799, chôn vào đêm. Đám tang nửa theo phép
đạo Thiên Chúa, nửa theo lễ tục Nam, tế trọng thể, bài ai điếu viết trên
lụa vàng, nay còn để dành tại họ Sài Gòn.-
Sau Lăng Cha Cả là mộ phần chung các vị mục sư kế tiếpmất tại đây.
Trong số, có mộ cha R. P. Liot, là bí thư của Đức linh mục d’Adran.-Lăng
Lê Văn Phong, sanh tiền tặng “ông Tả Dinh” là em của Lê Tả quân. Mất
trước Tả quân nên mộ phần kiên cố hùng vĩ bởi do Tả quân đứng trông nom
xây cất. Chúng tôi mới tìm được trước ở trong hoa viên nhà ông quản lý
Đông Pháp Ngân hàng, sau vì đổi chủ nên mất tích. Trước ở về phía hữu
đường Mac Mahon nối dài, nay ở về phía hữu đường Ngô Đình Khôi (?),
khuất trong xa, phải cố tìm mới ra mối.
Lăng Nguyễn Văn Học,trước kia Pháp gọi “tombeu du Maréchal Nguyễn Văn
Học”.
Nay truy ra không có công thần nào triều Nguyễn có tên họ như vậy.
Có chăng là ông Trần Văn Học,tác giả bức địa đồ tỉnh Gia Định họa năm
1815? Ngày trước ngôi mộ Nguyễn Văn Học ở chỗ khác, chủ đất xin dời nên
tham biện sai gỡ ra từng khối nguyên đem về ráp lại trong hoa viên gần
tòa hành chính như hiện nay ta thấy. Năm cải táng, 1939, lấy được đồ
trang sức phẩm bằng vàng, mão, đai của nhất phẩm đại thần, về sau ông
quản thủ Pháp dời giấu ở Long Xuyên bị cướp chung một số kiếp với những
đồ vàng đào được tại đường Công Lý đã nói ở đoạn trước.
Lăng quý tộc họ Hồ, hoàng thái hậu, vợ vua Minh Mạng, mẹ vua Thiệu Trị
tại làng Linh Chiểu Tây (Thủ Đức)
Lăng này còn tốt, tuy có vẻ đìu hiu.
Trong sử ngày xưa, vua Tự Đức sai ông Phan Thanh Giản sang Pháp nói
chuyện đem tiền chuộc đất ba tỉnh Miền Đông cũng vì những ngôi mộ này
một phần nào.
Lăng ông Nhiêu Lộc
Cách
kiến trúc khác hơn những lăng đã thấy, hình vuông vắn như ngôi nhà vững
chắc. Lăng này trước kia Trường Viễn Đông Bác cổ chưa liệt kê, may thời
nay lọt trong sở nhà đất thuộc sân bay Tân Sơn Nhất, tại đường Chi Lăng
(?), giữa khoảng Võ Di Nguy (?) và Ngô Đình Khôi (?). Một ngôi mộ xưa
nhỏ hơn mộ Nhiêu Lộc, vì ở gie ra ngoài đường Chi Lăng, nên đã bị phá,
không biết khi cải táng có gặp món đồ gì có giá trị cổ tích chăng, vì
lúc sau này, Ty Vệ sinh Đô thành, mỗi khi cải táng, không như trước, mời
đại diện Viện Khảo cổ tham dự.
Đất mộ
phần dòng họ Trương Minh, tại Gò Vấp .
Đến đây hỏi thăm nhiều người biết.
Phủ thờ cũ kỹ, kèo trính mối leo cả dây. Đặc biệt nơi đây còn giữ được
trên trăm bài vị tiền nhân trong dòng họ. Còn sót vài món từ khí, bàn
thờ, hoành phi, liễn đối nguyên xưa của nhà ông Thế Tải Trương Minh Ký,
một học giả đồng thời ông Sĩ Tải Trương Vĩnh Ký. Mồ mả có cái xưa nhất
là của ông bà Trương Minh Giảng thì xây bằng vôi trộn ô dước theo kiểu
thế kỷ XIX, có riêng một ngôi mộ núm tròn kiểu khác lạ chưa từng thấy,
đến như ngôi mộ của ông Trương Minh Ký cất đầu lối thế kỷ XIX đã “lai
Tây”, có nóc bắt bông thạch cao kiểu bắt chước các mồ mả đạo Thiên Chúa,
xuống một bậc nữa, đến cháu con ông Thế Tải thì có cái ngả hẳn về đạo
Thiên Chúa, dầu núm đất cũng khắc mộ bia Việt ngữ, tên họ kèm theo tên
thánh thêm đặt ảnh chụp lồng kiếng chân dung người quá vãng. Đi xem đất
phần mộ họ Trương Minh, biết được kiểu mồ mả ba thế hệ: thế kỷ XIX, đầu
thế kỷ XX và thế kỷ XX.
Chùa Chiền
Về
cổ tích trong Nam, các chùa chiền chiếm một địa vị khá quan trọng. Xét
ra người Miên thưở giờ có tục hỏa táng nên mồ mả cổ tích Miên trên đất
Sài Gòn không thấy cái nào. Những chùa Miên xưa chỉ sót lại mấy cái nền
đất dùng qua việc khác. Đường Trương Minh Giảng nay có dựng một ngôi
chùa thì vẫn mới quá, chưa đáng liệt kê vào số cổ tích. Chỉ có người
Việt, người Tàu, đồng văn hóa, đồng tín ngưỡng, cho nên khi đi đến đâu
xứ lạ đất mới thường ưa đậu tiền đậu vốn hùn nhau lập chùa miễu cùng
chung thờ phượng (không kể các chùa đặc tính của mỗi dân tộc hoặc các
am, thất nhỏ, riêng biệt của vài phái, nhóm địa phương). Nay điều tra kỹ
thì chưa có cái nào có trước năm 1698, tức đều sau cuộc Nam tiến mà
thôi.Theo chúng tôi được biết, thì có ba chùa sau đây đáng gọi tiêu biểu cho ba tín ngưỡng:
Giác Lâm Tự
Một ngôi chùa thờ Phật, cổ nhứt trong vùng là chùa Giác Lâm, do người
Minh Hương, Lý Thoại Long, quyên tiền xây năm Giáp Tý (1744), nay vẫn
còn nghiêm túc vững chắc ở trên Phú Thọ.
Minh Hương
Gia Thạnh
Một ngôi chùa khác, liên hệ rất nhiều đến lịch sử là chùa Minh Hương
Gia Thạnh, lập năm Kỷ Dậu (1789) do di thần Minh mạt và con cháu Minh
Hương, dựng trong Chợ Lớn (Sài Gòn thời đó), để di dưỡng tinh thần yêu
cố quốc, mến quê hương, chùa nầy đến nay khói hương không dứt, được
tiếng khéo tu bổ, khéo săn sóc nhứt trong vùng.
Thất Phủ Quan Võ Miếu
Còn một ngôi chùa thứ ba của phái Nho Học, quan trọng không nhỏ đối với
lịch sử đất Sài Gòn, tiêu biểu cho lòng trung cang ái quốc, tạo lập từ
ngày người Minh dựng nên phố Đề Ngạn. Qua năm Canh Thìn (1820), chùa
được xây cất lại mới và trải bao biến cố, còn sừng sững làu làu như ngày
nay ta thấy, đó là Thất Phủ Quan Võ Miếu. Nay xét kỹ lại, mới rõ đây là
cổ tích gần như duy nhứt để chỉ trung tâm điểm của phố Sài Gòn của
người Tàu ngày xưa.Nếu có thể ví ông bà
ta xưa kia vào lối cuối thế kỷ XVIII và ngót hơn một thế kỷ tiếp đó ngày
tư ngày tết, hãnh diện nhứt là được lê gót giày mạ mị (đế kết bằng lông
đuôi ngựa), dạo phố Quảng Tống Cái (Quảng Đông Nhai hay rue de Canton),
qua đời chú bác ta lại thích chiều chiều thả xích phê[79]đường Catinat,
giày "ăn phón" (fabriqué en France) nện vỉa đường nghe cốp cốp, qua đến
đàn em ta và ta ngày nay lại ghiền thú chen lấn nhộn nhịp nam thanh nữ
tú Chợ Bến Thành, rõ ràng trải qua ba thời đại, Sài Gòn ở ba điểm khác
nhau, và phố Triệu Quang Phục ngày nay, bắt từ chùa Quan Đế chạy dài tận
mé sông, quả là địa điểmđất cổ Sài Gòn , rất đáng được liệt kê vào sổ
cổ tích và nên ủng hộ cho đến kỳ cùng, không nên vì lý do nào, cho phép
vỡ phá sửa đổi xây cất lại mới, làm mất dấu vết "lịch sử" của nó. Trong
các cổ tích thuộc đường Triệu Quang Phục, đáng để ý nhứt là Thất Phủ
Quan Võ Miếu, như đã nói, trong chùa có lên cốt tượng thờ Đức Quan Công,
thái tử Quan Bình, và kẻ bề tôi trung tín là Châu Thương cùng ngựa Xích
Thố. Vía đức Quan Đế vào ngày mười ba tháng Giêng âm lịch.
Khảo ra,
chùa có trước thế kỷ thứ XIX, nhưng đến năm 1819 - 1820 mới xây cất kiên
cố cho đến ngày nay, tuy bị bỏ bê, nhưng vẫn còn vững chắc và hùng vĩ
lắm. Nếu nói nay chùa lâm vào cảnh nhang tàn khói lạnh thì quá đáng,
nhưng nên trách ban quản trị hiện thời vì quá ham lợi và quá xu mị phe
duy vật, đành dùng sân bên hông chùa xây cất phố lầu cho mướn, tuy có
thêm huê lợi nhưng mất sự tinh khiết chung quanh chỗ thờ phượng, lại cho
phép trước mặt tiền chùa dựng một rạp ciné, ngày ngày diễn tuồng cụp
lạc dâm ô, đàng điếm, thậm chí trong chùa, giữa chánh điện, lại phân
chia phòng nhỏ phòng lớn, lớp dạy học, chỗ bày ghế bố làm nơi ăn ngủ của
bọn bán xăm bán nhang đèn, xúc phạm đến thế là cùng, người có Nho phong
lễ giáo đến đây không khỏi động lòng trắc ẩn. Đã biết ở đâu cũng có
tiểu nhơn, quân tử, cũng không nên cố chấp làm gì, nhưng không nói nó
làm sao ấy! (Ngày mồng năm tháng sáu d. l. mới đây, chúng tôi có dịp trở
lại viếng chùa, thấy còn thương tâm hơn nữa. Người ta đương khiêng cây
ván bày bừa bãi trước chánh điện, các lớp dạy học và những phòng tụ hội
của ủy ban nầy nọ đã lấn sát bàn thờ, đức Quan Đế chỉ còn một chỗ ngồi
hết sức chật hẹp, tượng cốt thì lột mãng bào mũ miện ra, định chừng muốn
tô lại mới; nhưng nếu đã hết tin tưởng thì thà để vậy có phần cổ kính
hơn, - một bài minh đề "Đạo Quang đệ thất niên " (1827), kể lại công đức
Quan Đế khắc trên gỗ mạ vàng tuyệt mỹ thì bị bỏ ra ngoài sân dựa vách,
mặc dầu mưa gió, mặc dầu mục hư, thảm não nhứt là mấy tấm cổ bia đá khắc
danh sách các nhà từ thiện xưa đã hỷ cúng bao nhiêu vào công cuộc xây
dựng chùa, trong số bia ân nhân ấy có một thạch bia chữ lớn nêu rõ bà Đỗ
Thị, phu nhơn Tả Quân Lê Văn Duyệt, cúng hai trăm quan tiền thời đó
(năm 1819) và một bia đá khắc kể rõ bảy phủ là những phủ nào, toàn là
bia cổ tích, liên quan nhiều đến lịch sử Sài Gòn, những bia ấy cũng
tránh không khỏi sự phá hoại vô lý, tấm thì bị trét hồ, tấm lại bôi vôi
hoặc mất chữ hoặc lem luốc chữ không đọc được. Thiết tưởng dốt nát thì
còn tha thứ, nhưng nếu đó là sự cố ý xúc phạm của người hữu học, thì đến
thế là cùng! Một dân tộc có tiếng là văn minh, nếu muốn được người khác
tôn trọng, thì trước phải biết trọng mình và tôn kính những cốt tượng
thần phật của mình thờ phượng xưa nay với chớ! Đây là một câu hỏi của
một người bấy lâu hằng lấy gương Quan Đế làm mực thước xử thế, xin gởi
với bao lễ kính và chí thành lên các bực đàn anh Trung Hoa, nếu có vị
nào đọc bài này, vui lòng cho biết tôn ý để học hỏi thêm.
Hỏi: Vì sao
cũng xưa các người Tàu dạy khắp nơi thờ cúng Quan Võ Đế rồi ngày nay
cũng người Tàu làm gương nguội lạnh đến thế nầy?
Nếu các ông không có
tín ngưỡng nữa thì xin giao ngôi chùa lại cho chúng tôi gìn giữ làm cổ
tích như thế còn có nghĩa hơn.
Tam Hội Miếu
Cách chùa
Quan Đế một tấm vách, có chùa "Tam Hội Miếu" thờ bà Chúa Thai Sanh, coi
về sinh đẻ. Nơi đây những người đàn bà hiếm con thường đến cầu nguyện
về đường tử tức. Chùa lập năm 1839 gọi tắt là "Phò Miếu" (Miếu Bà).
Tương truyền trong chùa có thờ bài vị một vị Phò mã, con trai ông Trịnh
Hoài Đức.- Ở xúm xít góc Triệu Quang Phục
và Nguyễn Trãi có đến ba chùa, còn cái thứ ba, cũng gọi "Phò Miếu" hoặc
"Chùa Bà" nhưng đây thờ bà Thiên Hậu Thánh Mẫu. Đây là một ngôi chùa có
tiếng là xưa nhứt, giàu nhứt, khéo nhứt, và cũng giỏi bảo tồn nhứt
trong vùng. Vía bà là ngày hai mươi tháng ba âm lịch, nhưng chùa vào lễ
từ ngày mười tám đến ngày hai mươi ba mới dứt, và người dân chất phác xứ
Chợ Lớn vẫn đinh ninh khi nào lễ cúng Bà xong thì khi ấy mới bắt đầu có
mưa đầu mùa. Chùa này trên nóc có gắn sành rất khéo, tả lại cuộc vui
đời xưa. Hai bên chùa, từ năm 1825 - 1830, đã có trụ sở Bang Quảng Đông,
nhưng ngày nay ta thấy hai toà lầu kiên cố, một bên là trường học, một
bên là trụ sở liên lạc của người bang Quảng Đông, lấy hiệu là "Huệ Thành
Hội Quán".Nay truy ra mới biết xóm ba
Chùa nầy đích thị là trung tâm điểm của xóm"Đề Ngạn" và nơi xưa kia
trong sách gọi"Sài Gòn" thị chính là nơi đây:"Cách
huyện Bình Dương mười hai dặm, ở phía tả và phía hữu đường quan lộ. Nơi
chợ có đường thông ra tứ phía đi liên lạc như hình chữ "điền", nhà cửa
phố xá liên tiếp thềm mái cùng nhau, người Hán người Thổ ở chung lộn dài
độ ba dặm, đủ cả hàng hoá trăm thức, ở bên sông nam và bắc không thiếu
món gì, đầu phía bắc đường lớn có đền Quan Công, quán Tam Hội, xây cất
đối nhau phía tả và phía hữu.
Chùa Thiên Hậu
Phía tây đường lớn có chùa Thiên Hậu, ghé
tây có Ôn Lăng Hội Quán. Đầu phía nam đường lớn về hướng tây có Chương
Châu Hội Quán (của bang Phúc Kiến). Phàm gặp giai tiết lương thần và
ngày tam nguyên, sóc vọng thì treo đèn đặt án để đấu xảo, ánh sáng rực
rỡ hình như cây lửa cầu sao vậy, lại đánh trống thổi kèn huyên náo, con
trai con gái kéo đến tấp nập, thành một thị phố đô hội náo nhiệt."Trong
một đường lớn có giếng xưa nước ngọt bốn mùa đầy luôn không kiệt. Đường
ngang có khe nhỏ gác cầu ván lớn, hai bên phố ngói cất dăng ở trên,
treo giăng màn trướng để che mặt trời, đi trên đường mát mẻ như đi dưới
mái nhà cao lớn vậy. Phía đông đường lớn có chợ Bình An, có đủ những thổ
sản quý báu ở núi ở biển và ở thôn dã, ban đêm cũng thắp đèn mua bán.
Ngày nay đã thưa thớt không bằng như xưa."(Đại Nam Nhất Thống Chí, Lục Tỉnh Nam Việt, bản dịch Nguyễn Tao, tập 2, trương 74).
Căn
cứ theo tài liệu trên thì quả trung tâm điểm của thị trấn xưa kia gọi
"Đề Ngạn", tức là phố Sài Gòn của người Tàu đời xưa, đích thị là ở ngay
nơi xóm Ba Chùa nầy rồi. Bằng cớ là những chùa nầy còn giữ y chỗ cũ, mặc
dầu ngày nay trung tâm chỗ buôn bán đã dời qua địa điểm khác, nhưng
chốn cũ vẫn còn nhiều hiệu buôn khách đồ sộ, có cái lâu đời đến hơn trăm
năm rồi.Xét ra người Tầu thuở đầu qua
đây, lúc ấy chưa có thuốc trị bịnh hiệu nghiệm như ngày nay, nên họ tin
nhiều ở sự phù hộ của thần thánh, đâu đâu đều có miếu thờ đức Quan Đế và
bà Thiên Hậu. Về chùa Bà, còn một ngôi chùa rất xưa nữa ở góc đường Lê
Văn Duyệt và Hồng Thập Tự. Nay thấy nền chùa thấp lé đé dưới vỉa đường
mà đoán chừng chùa nầy tạo lập từ xưa lúc ấy đô thành còn ẩm thấp chưa
cao ráo như ngày nay.
Chùa Thiên Hậu ( 2 )
Một chùa bà Thiên
Hậu nữa thì ở tại mé sông Chợ Cầu Ông Lãnh. Xưa người Tàu kình nhau lập
chùa miếu, mỗi bang có mỗi chùa riêng. Và nghe đâu chùa Bà Chợ Cầu Ông
Lãnh là của nhóm người Phước Kiến.Sau đây là sự tích của bà Mi Châu, thuộc Bồ Dương (Phước Kiến).Ngày
sanh: 23 tháng 3 năm Giáp Thân (1044), đời vua Tống Nhân Tông. Tám tuổi
biết đọc, mười một tuổi tu Phật giáo. Mười ba tuổi, thọ lãnh thiên thơ:
thần Võ Y xuống cho một bộ "Nguyên vị bí quyết" và bà tìm được dưới
giếng lạn một xấp cổ thư khác. Bà coi theo đó mà luyện tập rồi đắc đạo.Cha
tên Lâm Tích Khánh ngồi thuyền cùng hai trai, anh của Bà, chở muối đi
bán tỉnh Giang Tây, giữa đường thuyền lâm bão lớn... Cả ba cùng té, lặn
hụp chới với... Cùng một ngày giờ đó, trong lúc trận bão diễn ra ngoài
khơi, thì bà đang ngồi dệt vải bên cạnh mẹ. Bà ngồi khung cửi, bỗng nhắm
mắt lại, nghiến hai hàm răng, hai tay đưa tới trước dường như trì níu
một vật gì nặng lắm. Mẹ ngồi gần thoạt thấy cử chỉ lạ lùng làm vậy, phát
sợ, gọi bà. Bà không ừ hữ. Mẹ càng sợ thêm, đến gần Bà nắm hai vai vừa
lắc chuyển vừa la lớn: "Sao vầy con? Trả lời đi con! Nói mau kẻo mẹ sợ
lắm." Bà mở mắt, ư một tiếng dài như vừa tỉnh giấc chiêm bao, bỗng oà
lên khóc: "Mẹ ôi! Thôi rồi, cha mắc nạn to, thuyền bị bão chìm, nay con
không cứu cha được cũng vì mẹ một hai trục con về. Âu chẳng qua cũng tại
số trời! " Rồi bà thuật tự sự. Khi ban nãy Bà làm như vậy là Bà đang
một tay nắm anh cả, một tay kéo anh thứ, vì cả hai đang chới với dưới
ngọn ba đào. Giữa lúc bối rối làm vậy bỗng Bà thấy cha đang lặn hụp dưới
thủy triều và sắp bị nước cuốn trôi... nên Bà vừa dùng răng cắn được
chéo áo của cha, Bà sắp cứu được cả ba thoát nạn dữ, kế nghe mẹ kêu giựt
dội một hai lay gọi ép Bà trả lời, Bà vừa hở môi thì sóng cuốn cha mất
dạng. Nên Bà chỉ cứu được hai anh khỏi nạn và chờ các người ấy về sẽ rõ
âm hao. Quả đúng như lời, cách ít hôm sau, hai anh về tả lại cảnh cha
chết, quả y như lời Bà đã thuật cách mấy ngày trước.Từ
đó tin đồn truyền ra, xa gần đều biết và mỗi khi ngoài biển thuyền bè
bị đắm, gọi vái đến Bà là tai qua nạn khỏi. Về sau, dân gian quá ngưỡng
mộ danh Bà, mỗi khi có nguy hiểm tai nạn đều van vái Bà, nhứt là những
khách thương cỡi thuyền vượt biển.Năm
Canh Dần (1110) niên hiệu Đại Quan, nhà Tống sắc phong Bà: "Thiên Hậu
Thánh Mẫu". Lễ cúng 23 tháng 3 mỗi năm; và tại Chợ Lớn, có chưng cộ Bảy
Bang rất lớn, có múa rồng hát bội Tàu và ta, bong đèn kết tụi, bong hình
nhơn "Kim Đồng, Ngọc Nữ" bằng trẻ con rất khéo. Từ ngày duy tân, bớt
những xa xỉ ấy, bao nhiêu hoa lợi chùa Bà mỗi năm trên số triệu, đều
dùng vào việc nghĩa: giúp dưỡng đường, trường học, v.v... Nhưng ban trị
sự Chùa Bà sáng suốt nên không theo gương bên Quan Võ Miếu, vẫn thờ
phượng tôn kính và chỗ chánh điện vẫn giữ y như cũ. Hay là các người
Trung Hoa, mặc dầu theo mới, nếu có triệt để "duy vật" là bên chùa ông,
còn bên chùa Bà vẫn kiêng nể và nhắm mắt để cho đàn bà đi chùa lễ thần
và cúng vái thế cho mình.Trong chùa Bà
Thiên Hậu Chợ Lớn còn vài cổ vật, cổ tích: một đại đồng chung đề "Đạo
Quang năm thứ 10" tức làm vào năm 1830. Một bộ lư Pháp lam (cloisonne')
vĩ đại, cũng đề một niên hiệu ấy. Một tướng lịnh của tướng d ' Ariès ký
tên cấm các binh sĩ Tây và Y Pha Nho (Tây Ban Nha) phá phách trong chùa
cũng đề ngày lối năm 1859 hoặc 1860, tiếc thay người trong chùa không
biết giữ gìn kỹ lưỡng, nên chữ đã phai mờ không đọc được. Chùa ngày nay
như ta thấy, toàn xây bằng vật liệu bên Tàu đem qua, từ viên gạch, tấm
ngói, đến những đồ gốm gắn trên mái nóc đều do thuyền buồm chở sang đây,
đến cách thức phong tô cũng giữ y thể thức Tàu, gạch xây liền mí không
tô hồ, đếm rỡ từng tấm một, lằn hồ thẳng đường thẳng lối khít rịt và
ngay bon như vẽ, thiệt là rất khéo và tưởng chừng thợ kim thời khó làm
sắc sảo hơn được nữa. Truy ra chùa nầy trùng tu năm 1860 (Hàm Phong năm
thứ 10). Ngày nay đứng sân chùa ngắm lên các cảnh chưng trên nóc bằng đồ
gốm nung bên Tàu là biết được những phong tục Trung Hoa cổ thời, thưở
vua chúa còn trị vì: đả võ đài, thi đậu vinh quy, công chúa tuyển phò
mã, v.v... những vật này đáng được liệt kê vào sổ cổ tích vậy.Nay tiếp tục dạo xem các chùa khác thì gặp:-
Đường Đồng Khánh, một chùa của người Hải Nam, hiệu đề "Quỳnh Phủ Hội
Quán" còn trang nghiêm và khéo gìn giữ, có trật tự lắm. Trong chùa còn
một chung đồng lớn đề "Quang Tự Ất Hợi" (1875).
Hà
Chương Hội quán
Đường Nguyễn Trãi, có một chùa của người Phước Kiến, hiệu đề: "Hà
Chương Hội quán". Chùa nà đồ sộ và khéo nhứt thời xưa, cho nên ngày nay
người cố cựu Chợ Lớn còn quen dùng danh từ "lớn bằng chùa ông Hược", vì
thời trước chỉ có chùa nầy là nguy nga nhứt. Quên nói "Hược" là tên nôm
na của "Hà Chương Hội Quán". Ngày 6 tháng 6 năm 1960, chúng tôi có đến
viếng chùa, nhơn dịp hỏi lai lịch và nguyên do chữ "Hược" thì chính ông
từ giữ chùa cũng ấp úng trả lời không suôn sẻ. Chúng tôi hỏi "Phước
Kiến" có bảy phủ là những phủ nào thì ông kể không đủ số. Đến chữ
"Hược", theo ý ông là do chữ "Hạp" (Hiệp), tức ý nói chùa lập ra do sự
thống nhứt của các phủ tỉnh Phước Kiến hạp lại". Cắt nghĩa làm vậy chúng
tôi tưởng chưa thông đâu. Kế đó chúng tôi đến hỏi một học giả ham chơi
đồ cổ, gốc người Phước Kiến ở đường Phạm Ngũ Lão thì ông không trả lời
được. Riêng chúng tôi được biết, có phải chăng "Hược" do "Học" tức
"Phước" hay "Phúc" đọc giọng Phước Kiến? Chúng tôi nay xin chép ra đây
để chờ người cao học phủ chính.
Tiếng rằng
"Chùa Ông Hược", nhưng chánh điện thờ bà Thiên Hậu. Trong chùa có một
chuông lớn đề "Đồng Trị, Mậu Thìn niên" (1868). Tại chùa có bốn cây cột
đá, nguyên khối, rất lớn và khéo vô song. Chạm rồng vấn cột, vẩy vi,
nanh móng nổi ra, tóc râu chạm lọng tuyệt mỹ, tiếc thay, mấy năm tao
loạn đã bị sứt mẻ và gãy rời mất đôi chỗ, thật là rất uổng. Khéo nhứt là
hình "bát tiên quá hải" chạm đứng trên thủy ba, trên mây và trên vi
rồng, nét chạm thần tình đến tưởng nét vẽ trên giấy cũng không khéo hơn.
Nghe nói xưa chùa có sáu cây cột nhưng đã bị chánh phủ thời đó "mượn
không trả" hết hai cây rồi!Ngoài cửa
chùa, đời Đồng Trị năm Mậu Thìn (1868), Trạng Nguyên Lâm Hồng Niên người
Phước Châu, có gởi cúng hai câu liễn khắc vào đá, nay còn rành rành:"Hàthái ánh Nam thiên, vận triều tu hòa chi khánh."Chươnglưu thông trạch địa, linh khai phú hữu chí trường."-
Đường Lão Tử, có "Ôn Lăng Hội Quán" của người Phước Kiến, thờ Bà Thiên
Hậu. Vị trụ trì chùa nầy cho biết rằng "Ôn Lăng" là một danh địa phủ
Tuyền Châu. Ngoài cửa chùa có chạm vào đá hai câu liễn do Trạng Nguyên
cập đệ Ngô Lỗ cúng năm Tân Sửu (1901) đời Quang Tự:"Ôn nhu trước chí nhơn, chánh đạo dung dân nguyên Khổng Dịch;"Lăngnhạc đồng trang trọng, mẫu nghi hình ngã cánh vô phương ".Trong chùa còn một chuông lớn đề "Đạo Quang Ất Dậu niên" tức năm 1825 (năm thứ sáu của vua Minh Mạng).Khi
từ tạ ra về, hoà thượng đưa ra cửa, dạy thêm cho biết rằng: "Để tưởng
niệm Châu Ngươn Chương, thủy tổ nhà Minh, nên chùa thường dùng màu đỏ
(châu, chu) sơn cột và trính, còn trên ngạch cửa, có chạm hai mắt lồi
ra, tượng trưng "Nhựt", "Nguyệt", hai chữ ấy ráp lại tức "Minh" vậy.-
Đường Đèn Năm Ngọn, góc Khổng Tử và Phùng Hưng, còn một ngôi chùa Phước
Kiến nữa, đề "Nhị Phủ Hội quán". Nhị phủ là Chương Châu phủ và Tuyền
Châu phủ nhập lại. Chùa nầy lập năm 1835, thờ "Ông Bổn".Nguyên
đời Vĩnh Lạc (1403 -1424), vua có sai ông thái giám Trịnh Hoà (sách
Pháp âm: Cheng Ho), cỡi thuyền buồm dạo khắp các nước miền Đông Nam Á
ban bố văn hoá Trung Hoa, và luôn dịp mua về cho hoàng đế Minh Triều
những kỳ trân dị bửu Ấn Độ, Xiêm La, Miến Điện, Cao Miên, Việt Nam,
Chiêm Thành, Tân Gia Ba, Chà Và, Nam Dương Quần Đảo, v. v... Trương Hòa
tỏ ra vừa nhà thám hiểm, du lịch, khảo cứu địa dư, ngoại giao, ngôn ngữ
học, mỗi mỗi đều tài tình. Đi đến đâu, ông thi nhân bố đức, và đưa người
Tàu đến lập nghiệp đến đó, hoặc chỗ nào có người Trung Hoa ở sẵn thì
ông chỉnh đốn sắp đặt cho có thêm trật tự, v.v..., sau nầy ông mất, dân
ngoại kiều cám đức sâu, thờ làm phúc thần, vua sắc phong "Tam Bửu Công",
cũng gọi "Bổn Đầu Công" (đọc giọng Tàu là Bủn Thầu Cúng) gọi tắt là
"Ông Bổn".- Đường Nguyễn Trãi đi một đoạn
khỏi đường Tổng Đốc Phương, gặp chùa Lệ Châu. Đây là "chùa Tổ", thờ tổ
sư của nhóm thợ và chủ lò kim hoàn; sau những người Hoa Kiều đồng nghề
cũng nhập với đồng nghiệp Việt Nam, nên mỗi năm cúng tổ long trọng và
oai nghi lắm.- Đường Đồng Khánh ngang bót
Quận Tư, nay đổi làm bót Quận Năm, là chùa "Minh Hương Gia Thạnh". Chùa
nầy cổ nhứt trong vùng, tạo lập từ năm Kỷ Dậu (1789) đời Cảnh Hưng, nhờ
ban quản trị sáng suốt nên gìn giữ được vẻ tôn nghiêm xưa... Trải bao
biến đổi, chùa còn giữ được bút tích, liễn đối do tay Trịnh Hoài Đức
viết, và các đạo sắc chỉ vua ban đời trước. Trong chùa thờ các di thần
Đại Minh và con cháu, phần nhiều là những người Minh Hương danh tiếng,
đứng đầu có Trần Thắng Tài. Sau thêm bài vị các ông Trịnh Hoài Đức, Ngô
Nhơn Tịnh, Vương Hữu Quang v.v...- Trong Chợ Lớn còn ba chùa thờ Quan Võ Đế nữa là:
1) -
Phước An Hội quán, lập năm 1900, thế cho miếu nhỏ "An Hoà cổ miếu", ở
đường Hùng Vương, góc trổ ra đường xe lửa Mỹ cũ. Chùa nầy do người Minh
Hương tạo lập. Mấy chục năm trước, hội trưởng là ông Nguyễn Chiêu Thông,
nay đã mất.
2) - Bửu Sơn Hội quán, đường Xóm Vôi (trong xóm có bán vôi ). Hội trưởng có công với chùa năm xưa là ông Dương Công Cẩn.
3) -
Nghĩa Nhuận Hội quán, đường Gò Công, lập năm 1872, do ông Đỗ Hữu Phương
(1840 - 1914) gây dựng và con là Đỗ Hữu Trí vun bồi. Hội trưởng cũ là
ông Trương Văn Bền. Chùa được ban quản trị chăm nom chu đáo lắm. Trong
chùa ngăn nắp, chỗ thờ, chỗ yến tiệc, đâu đâu đều đàng hoàng. Còn đủ năm
tấm cổ bia bằng đá khắc tên các nhà hảo tâm hỷ cúng lập vào những năm:
Tân Mùi (1871), Kỷ Mão (1879), Giáp Ngọ (1894), Bính Ngọ (1906) và Tân
Hợi (1911). Năm 1952 có một bà cúng vào chùa một tượng xích thố mã bằng
gỗ sơn mài, trông y ngựa thiệt, không chùa nào có tượng khéo hơn, lạ là
thời nay còn nghệ sĩ có biệt tài như vậy cũng nên mừng. Nhưng lạ nhứt và
mừng nhứt là tôi được gặp tại đây câu liễn thờ Quan Đế, bấy lâu nghe
đồn mà không biết ở đâu, trong câu gồm hết một bộ truyện Tam Quốc:
"Sanh Bồ Châu, Sự Dự Châu, Chiến Từ Châu, Thủ Kinh Châu,Vạn cổ thần châu hữu nhứt <>Huynh Huyền Đức, Đệ Dực Đức, Xá Bàng Đức, Thích Mạnh Đức,Thiên thu thánh đức vô song " .
Chùa Ông Nhỏ
Còn
một chùa Quan Đế khác nữa gọi "Chùa Ông Nhỏ" để phân biệt với chùa
đường Triệu Quang Phục là "Chùa Ông Lớn". Chùa nầy ở trên đường Nguyễn
Trãi, hiệu đề "Nghĩa An Hội quán". Chùa nầy có tục lệ đến ngày vía thần,
phát bánh quy sang năm sau góp lại, trẻ em ăn là được phước, và cũng
giúp vốn để sanh nhai, tục gọi "tá phú". Dường như chùa nầy của người
Triều Châu. Tại chùa có trường tư thục hiệu đề "Sùng Ninh" và đây cũng
là phòng liên lạc hội Khổng Học Hoa Việt.
Ngọc Hoàng Điện
Kể
về chùa Tàu, tại Sài Gòn, đường Phạm Đăng Hưng (Đất Hộ), có một ngôi
chùa cũng lạ lắm. Chùa tạo lập lối năm 1905, ăn lạc thành năm 1906,
trông có vẻ cổ kính vô cùng, hoa viên, và cách sắp đặt phía trong đáng
được liệt kê vào hàng kỳ quan tại Sài Gòn này lắm. Ấy là chùa Ngọc
Hoàng, chữ viết "Ngọc Hoàng Điện". Một người Tàu tên Lưu Minh ăn chay
ròng, giữ đạo "Minh Sư", lập chí quyết lật đổ nhà Mãn Thanh, xuất tiền
tạo lập vừa để thờ phượng vừa làm nơi hội kín. Chánh điện thờ đức Ngọc
Đế, tiền điện thờ đức Thích Ca, phía hữu điện vào trong xa có một cổ
miếu nhỏ thờ viên đá bản xứ tượng trưng "Ông Tà" của người Cao Miên xưa.
Đây có lẽ là nguồn gốc miếu cổ nầy, về sau người Tàu có thâm ý mang từ
bên xứ họ sang một viên đá khác để gần đó, nhang đèn thờ phượng, chữ đề
"Thái Sơn", tức lấy đá từ hòn núi Thái Sơn bên Tàu qua đây thay thế cho
Néac Tà" bản xứ. Gần đó nữa, có bụi tre ngà, dưới gốc cũng nhang đèn
nghi ngút, trên nhánh tre nào quạt, nào tóc rối, nào chỉ quấn nùi, quạt
tượng trưng cho sự mát mẻ, có lẽ hoặc của hai người bạn, vừa hết giận
nay làm thân, hoặc của đôi vợ chồng sum hiệp sau những ngày hờn dỗi, tóc
rối, chỉ nùi tượng trưng những rối rắm trường đời nay cởi bớt treo đây
cho nhẹ. Trước miếu có gian phòng bày cảnh thập điện và cảnh thiên đàng
chạm trên cây rất đẹp, bên tả điện có treo bứ tranh "Đạt Ma Tổ Sư quá
hải", tranh vẽ trên giấy nét bút thần tình. Kế bên có thang đưa lên từng
lầu, nơi đây thờ Quan Đế và bài vị những người có công tạo lập cảnh
chùa. Bước ít bước tới sân lộ thiên, đứng đây dòm bao quát thấy đủ nóc
bắt bông bắt chỉ bằng đồ gốm tinh xảo vô cùng, lại thấy sự thâm ý hạn
chế ánh sáng làm cho trong chùa có vẻ âm u huyền bí theo ý nhà kiến trúc
sư tinh thông thuật tâm lý.
Giác Viên Tự
Nay trở lại
kể qua các ngôi chùa thờ Phật thì có Giác Viên Tự, tên ngoài là Chùa Hố
Đất, cũng gọi là Tổ Đình. Chùa nầy đã có từ năm Gia Long thứ 2 (1803),
nhưng nếu được u nhã kiên cố như ngày nay là nhờ công vị cao tăng, sư
Hải Tịnh nhiều. Trước khi sư Hải Tịnh tu tại chùa Giác Lâm, sau vì thấy
chùa hư nhiều cần tu bổ lại nên sư Hải Tịnh qua trụ trì tại chùa Giác
Viên ở cách đó lối một cây số ngàn. Ở Giác Viên Tự, sư Tịnh Hải lao công
trì chí sắm từng bộ cột gõ và chắt mót lần hồi cho đến đủ tiền tu tạo
chùa Giác Lâm. Sửa chùa rồi, sư Hải Tịnh giao cảnh Giác Viên Tự cho đồ
đệ là Hoà Thượng Hoằng Ngãi, tên ngoài là Trần Văn Phong. Sư Hoằng Ngãi
gốc người Bà Điểm, sanh năm 1857, tịch ngày 23-12-1919. Lễ nhập tháp là
ngày 3-1-1930, tháp nay còn gần chùa Giác Viên, ngày cất đám có trên
ngàn thầy sãi các nơi đến dự.
Cẩm Sơn Tự
Một chùa
Phật hữu danh nữa là chùa Cẩm Đệm, tên xưa là "Giác Lâm Tự", trên Phú
Thọ, đường đi Bà Quẹo, cách chùa Giác Viên một cây số ngàn. Chùa cũng có
tên khác là "Cẩm Sơn Tự", lập từ năm Giáp Tý (1744), là một ngôi chùa
xưa bực nhứt trong vùng.Như đã nói, vị
cao tăng Hải Tịnh trước tu hành nơi đây. Khi sư Hải Tịh tu bổ chùa như
sở nguyện được rồi thì sư giao chùa Giác Lâm nầy cho một đồ đệ nữa là
Yết ma Phạm Văn Tiên, người Bình Thới (Gia Định), sanh năm 1875 (không
biết người tịch năm nào, chớ vào khoảng 1929, người còn khỏe lắm).Chùa
Giác Lâm còn một dật sử cũng nên thuật lại. Số là độ trước, Tư Mắt, tay
anh chị nổi tiếng nhứt hô bá ứng một thời tại Chợ Lớn, khi biết mình
gìa thì lui về nghe kinh niệm Phật tại đây. Nào ngờ khi thiếu niên thì
búa dao không chém được, trở về lão, vì một cây đèn ét xăng trục trặc
sao đó, khiến Tư Mắt lui cui sửa chữa thế nào mà xăng phựt cháy, cháy
luôn "con hổ già Tư Mắt" không cứu kịp. Ô hô! Anh Tư!
Chùa
Giác Hải
Chùa
Giác Hải tại Phú Lâm lập năm 1887, ở gần Chùa "Giải Bịnh". Năm 1929, vị
hoà thượng trụ trì nơi đây là ông Nguyễn Văn Tường, pháp danh sư Từ
Phong, chùa cất sửa lại kiểu nhà thờ Gia Tô.
Thiên Trúc Tự
Chùa Giải Bịnh nay gọi "Thiên Trúc Tự ", trước tên "Giải Bịnh", vì nơi đây lúc trước chuyên trị tà ma giải bịnh loạn óc.Còn từ Phú Giáo trở ra Phú Lâm, những chùa nên kể là:
Phụng Sơn Tự
Chùa Bửu Sơn-
Chùa Gò, chữ gọi "Phụng Sơn Tự ", cất trên nền chùa Thổ xưa, nay còn
thấy rõ cản ao nước bọc chung quanh, điệu "Barray" của Cao Miên sót lại.
Nơi đây, năm 1902, vị chủ tọa, tộc danh là ông Đinh Văn Chấn, người Gia
Định, làng Phước Thạnh, sanh năm 1866, tự thiêu mình trên giàn hỏa, thọ
37 tuổi. Chùa Gò có đặc điểm là có bốn cây "bạch mai" một loại với cây
mai "đồn Cây Mai", nhưng trổ bông trái sum sê, hỏi ra thì giống mai nầy
mang từ Cao Miên về cách nay trên bốn chục năm và có lẽ cùng một chi
phái với mai trên lăng Mạc Cửu đất Hà Tiên, vì nhứt quyết mai Hà Tiên
gốc ở Cao Miên đem về, còn mai do Mạc Cửu mang từ Trung Hoa sang đã khô
chết từ lâu.
Chùa Tứ Phước .
Chùa Sùng Đức .
Chùa Tuyền Lâm (ông Yết ma Hạp, sanh năm Canh Ngọ (1870), cũng tự thiêu
năm Giáp Tý (1924) và mộ ông nay ở nghĩa địa Giác Viên, thọ 54 tuổi.
Chùa Bửu Lâm
Chùa Từ Ân ... theo Đại Nam Nhất Thống Chí, trương 81, thì chùa nầy lập
năm 1802, được sắc phong năm 1821 "Sắc Tứ Từ Ân Tự ". (Hoà Thượng Nguyễn
Văn Bằng, pháp danh Thanh Ấn, trụ trì nơi đây là một nhà sư danh tiếng
nhứt trong Nam, đạo, hạnh gồm hai, năm 1931 vẫn còn mạnh khoẻ).Các chùa nên kể nữa là :
Chùa Phật Bửu Tự đường Cao Thắng
Chùa
Hưng Long đường Minh Mạnh, mới xây dựng lại.
Năm 1952, tôi có gặp tại
đường Phan Thanh Giản, trong một trại bán cây ván cũ, một vài cây cột
gõ, còn chạm chữ "Hưng Long Tự", không biết sao lại lạc loài nơi đây?
Một chùa ghi trongĐại Nam Nhất Thống Chí, trương 81, rằng "Hưng Long Tự"
lập năm Giáp Dần (1794) do người làng là "Lính Yển" quyên của, Hoà
Thượng Phước An đứng lập, năm Gia Long thứ 2 (1803) được ông Hà Chánh
Niệm trùng tu, có phải chùa nầy chăng, và nếu phải thì địa phận làng An
Điềm xưa, thuộc huyện Bình Dương, ăn giáp đến đường Minh Mạng ngày nay
vậy. Còn "Lính Yển" nào đây có phải là người cõng Chúa Nguyễn Ánh chạy
giặc năm xưa chăng? "Lính Yển" năm 1794 quyên tiền lập chùa, còn chuyện
"cõng Chúa" thuộc năm nào, thì mơ hồ quá.
Ấn Quang Tự
Một chùa ở đường Sư Vạn Hạnh, hiệu "Ấn Quang" tức "Phật Học Đường Nam Việt", phái Đại Thừa.Một chùa hiệu "Bồ Đề Lang Nhã" của tư gia lập, đường Minh Mạng, thờ đức Quan Âm "thiên thủ thiên nhãn" (gỗ xưa mạ vàng).
Chùa Kỳ Viên
đường Phan Đình Phùng, (Phật Giáo nguyên thủy) (Tiểu Thừa).
Chùa Xá Lợi đường Bà Huyện Thanh Quan, kiến trúc tối tân, có thư viện.
Chùa Tam Tông Miếu, đường Cao Thắng, v.v...
Những
chùa cũ nay chỉ nghe nhắc tên là: Chùa Khải Tường, năm 1859 ông Nguyễn
Tri Phương lập làm đồn chống Pháp, qua đêm 6-12-1860 binh ta phục kích
giết quan bà Barbé nơi đây, nên chùa bị Pháp dẹp. Chùa nầy có dật sử
chính hoàng tử Đảm (sau lên ngôi là Đức Minh Mạng) sanh nơi hậu liêu vào
năm Tân Hợi (1791) giữa cơn tị nạn bình Tây Sơn. Qua năm 1804, Cao
Hoàng nhớ tích cũ, để tạ ơn Phật dày công che chở mấy năm bôn tẩu, nên
gởi tặng chùa một cốt Phật Thích Ca thật lớn bằng gỗ mít, thếp vàng
tuyệt kỹ. Từ năm 1867, chùa bị dẹp, tượng Phật phải dời về nương náu
nhiều nơi, cùng một số phận với hội Cổ Học Ấn Hoa, khi đường Tự Đức, khi
đại lộ Thống Nhất, (chỗ hãng máy bay Air France bây giờ), mặc cho mối
ăn mọt khoét. Ngày nay thăng bình trở lại, tai qua nạn khỏi, đức Thích
Ca vĩnh viễn ngự tại trung đường Viện Bảo Tàng Sài Gòn như chúng ta đã
thấy. Nền chùa Khải Tường truy rõ lại, ở lọt vùng đất trường Đại Học Y
Dược hiện thời, số 28 đường Trần Quý Cáp, trên khu đất mang số bông đồ
kim thời 1, 8, 9, - section B 2 è feuille, ville de Saigon. Vị trí nền
chùa định chừng ở lối dãy nhà bếp nhà xe của tòa nhà cũ Chưởng khế
Mathieu. Xóm nhà nầy dạo trước, nhiều người đồn "ở không được", và tương
truyền ai ở đây, cũng bị "phá khuấy" ít nhiều, chẳng ốm đau cũng có
chuyện nọ chuyện kia xảy đến làm cho nhọc lòng rối trí luôn luôn. Thời
Pháp có lúc họ dùng ngôi chùa để nuôi lính sen đầm, nay chỗ ấy làm trụ
sở trường thuốc, họa chăng từ đây tà mị gặp kẻ cao tay ấn hơn rồi!Cũng
lối đó, ngang chùa Khải Tường, day mặt ra đường Lê Quý Đôn phía sau xa
xa khu trường lớn Pháp Chasseloup-Laubat cũ, xưa có một ngôi nhà lợp
ngói ta, cột gỗ danh mộc, lối năm 1867, binh Pháp đặt làm tiểu đồn
(fortin), sau làm trại nuôi trẻ hoang, đến năm 1895 thì dẹp.
Trong Gia Định có chùa Tập Phước, cũng có từ lâu đời.Báo
Tri Tân số 7 ngày 18-7-1941, có kể bài của ông Nguyễn Triệu chép bài
thi ngũ ngôn cổ điệu của Trịnh Hoài Đức để tặng Viên Quan Hoà Thượng
chùa Tập Phước như vầy:
Ức tích thái bình thì ,
Lộc đổng Phương thịnh mỹ ,
Thích Ca giáo hưng sùng ,
Lâm ngoại tổ phú quý:
Ngã vi thiêu hương đồng,
Sư tác chi giới sĩ,
Tuy ngọai phân thanh hoàng,
Nhược mạc khế tâm chí,
Phong trần thúc lương bằng,
Thế giới nhập (?) ngạ quỷ!
Bình ngạnh nhậm phù trầmBào ảnh đẳng sinh tử.
Yểm tứ thập dư niên,
Hoàng thuấn tức gian sự!
Tây giao thích nhàn hành,
Sơn môn ngẫu tương trị:
Ngã, Hiệp biện trấn công,
Sư, đại hoà thượng vi.
Chấp, thủ, nghĩ mộng hồn!
Đàm tâm, tạp kinh quý!
Vãng sự hà túc luân,
Đại đạo hợp như thị...
Chùa
Kim Chương trong thành Ô Ma, trong địa đồ Trần Văn Học, thì ở ném phía
tả Hiển Trung Từ. Năm 1885, cụ Trương Vĩnh Ký đã không còn thấy, có lẽ
bị phá bỏ từ trước. Nay thấy trong sách, khi ghi Kim Chương Tự, khi viết
"Kim Chung Tự" định "Chương" là đúng hơn, ngặt nỗi không biết chữ viết
ra sao?
Miễu Thánh cũng gọi Miễu Hội Đồng, ở về phía hữu đền Hiển Trung, cũng bị thủ tiêu trong mấy năm binh cách trước 1885.
Đền
Hiển Trung, xây năm Ất Mùi (1895), trùng tu năm Gia Long thứ 3 (1804),
tu bổ năm Thiệu Trị thứ 7 (1847). Đền nầy được trường Viễn Đông Bác Cổ
liệt kê vào sổ cổ tích, tưởng nhờ vậy mà được tồn tại, không ngờ đến năm
1954 thì đã không còn!Riêng tôi được đến
viếng một phen năm1947 với ông Pierre Dupont, nhơn viên Trường Bác Cổ,
khi ấy đền đã bị mối ăn hư hao nhiều rồi, qua năm 1950, tôi có trở lại
viếng với ông Bernard Phillipe Groslier là quản thủ Pháp của viện Bảo
Tàng Sài Gòn. Chúng tôi đề nghị cấp tốc sửa chữa đền, nhưng cơ quan nhà
binh Pháp không thuận giao trả đền cho Trường Bác Cổ, một hai rằng đền ở
trên lãnh thổ nhà binh thì thuộc quyền nhà binh định đoạt! Tưởng việc
đâu còn đó, và trong trí tôi đinh ninh nhớ đền ở mé gần đường Võ Tánh,
cứ đứng ngoài rào, ngay chỗ giáp mối đường Nguyễn Cư Trinh (Marchand cũ)
ngó vói qua tường thì thấy nóc đền. Không dè qua năm 1955, chúng tôi
trở lại đây với nhơn viên Viện Khảo Cổ, thì đã sao dời vật đổi, đền đâu
chẳng thấy, một viên gạch nhỏ cũng không còn, đừng nói chi một bộ kèo
trính rường cột chạm trổ tỉ mỉ. Trường Bác Cổ đã nhìn nhận và liệt kê
vào hàng cổ tích, thì có lẽ đã theo "bàn tay nhám" của nhà thầu nào đó
mà biến thành tờ giấy bạc trong két của họ hoặc đã làm mồi cho mối mọt,
uổng thay!Đền Hiển Trung có một dật sử
riêng, nay cũng nên nhắc ra đây cho thỏa chút lòng hoài cổ. Nguyên tôi
có quen một bạn nhỏ, tánh tình dễ thương, nay làm việc tại Thư Viện Quốc
Gia đường Gia Long. Năm 1942, anh đến tuổi nhập ngũ, nên Tây bắt vô ở
trong thành Ô Ma. Nơi đây anh được nghe thuật lại một chuyện thuộc tín
ngưỡng, mà bây giờ tôi xin kể nghe chơi, không dám ép phải tin bằng lời,
vả lại về phần đảm bảo đúng sự thật, hoặc tin được cùng không, đã có
bạn tôi chịu trách nhiệm. Số là vào năm 1938, sau cuộc tuyển chọn lính
tân, nhà binh Pháp bèn đem các anh lính mới điều từ Lục Tỉnh về tập
trung chung quanh và ở ngay trong đền Hiển Trung. Vài ngày sau, xảy ra
việc binh lính mới điền không đau ốm mà chết, chết một hơi cả chục đứa
trong một đêm. Các võ quan Pháp bao giờ họ chịu tin chuyện là ma phá
quấy hay quỷ thần quở phạt, v.v... nên một mặt họ phú cho sở quân y điều
tra và chận đứng bịnh lạ, một mặt nữa thì họ cấm quân lính ăn những vật
bán ngoài thành. Thầy thuốc không tìm ra căn duyên bệnh dữ, và lính cứ
chết thêm mãi. Túng thế họ đành nhắm mắt để cho các thầy đội ông ách
cúng tế vái van thử xem. Ấy! Việc làm chơi chơi mà bệnh dứt ngang mới
quái lạ. Bẵng đi một dạo, câu chuyện dị đoan vừa quên lần, kế xảy ra
chuyện mấy trẻ con Tây mới đến chung quanh đền rồi chiều lại có nhiều
đứa bị nóng lạnh đến bí đường tiểu tiện! Mấy ông nhà nghề, nói thúc thủ
thì quá đáng, nhưng chưa kịp trổ tài thì đứa trẻ qua khỏi cơn nguy, nhờ
chị vúvái cho một nải chuối. Muốn vậy thì
cho vậy: năm 1939, các võ quan thành Ô Ma bày một cuộc lễ rất lớn, cho
phép lính tráng nghỉ ngơi mấy ngày và tha hồ ngã bò vật heo cúng tế. Dẫu
sao cũng mua được lòng vui kẻ dưới, vấn đề tự do tín ngưỡng sờ sờ trước
mắt kia mà! Năm ấy cuộc lễ càng tăng phần long trọng nhờ có quan từ
triều đình Huế vào đây "ngự tế". Nay đền Hiển Trung đã không còn, một
phần lỗi là vì nhà binh Pháp thuở ấy tự tiện dỡ xuống không cho Trường
Bác Cổ hay kịp mà dời đi chỗ khác xây dựng lại để bảo tồn một cổ tích
xưa, thật là đáng tiếc lắm thay!Văn Miếu thờ đức thánh Khổng, dựng năm Minh Mạng thứ 5 (1824) tại địa phận thôn Phú Mỹ (Thị Nghè) cũng mất dấu từ lâu.Cũng
tại thôn Phú Mỹ, có một dàn xã tắc và ruộng công điền mỗi năm tế giao
tại đây. Ruộng nầy, biết được ở trước Dưỡng Lão Đường, nhưng biết vậy
thôi, chớ nhà cửa cất chồng lên làm mất dấu từ lâu rồi.
Một
cổ tích mất dấu nữa là "Chú tiền trường", tức "trường tiền" là chỗ đúc
những tiền "Gia Long thông bửu", nay nền nhà cũ ở đâu? Sở Công Chánh
ngày nay, tục quen gọi "Trường Tiền", có phải là vì bộ Công khi xưa
chuyên việc đúc tiền, nên nay tên gọi làm vậy, và chớ nên thấy sở Công
Chánh có tục danh là "Trường tiền" rồi đề quyết ngày xưa "Chú tiền
trường" ở nơi đây, vì mỗi tỉnh Miền Nam đâu đâu đều có sở trường tiền
cả.Trong Chợ Lớn có hai ngôi chùa đã bị phá, nay chỉ còn tên:
1/-
Phước Hải Tự trong vùng dưỡng đường Chợ Rẫy;
2/- Phước Hưng Tự,
đường Hồng Bàng, góc Nguyễn Tri Phương. Hiện đường Hồng Bàng còn thấy
vài ngôi tháp cổ kính, đây là mộ của các vị hòa thượng trụ trì chùa
Phước Hưng vậy.Về chùa Kiểng Phước, xin xem trương 160 (Tìm ở chương 160 trong sách thì không có truyện về chùa này)Còn sót tên những chùa và hội quán như sau đây, xin bổ túc:Ưu Long Hội Quán, ở đường Ưu Long (Xóm Củi) không đặng công nhận.
Phụng An Hội Quán của nhóm Minh Hương, số 27 đường An Bình, không đặng công nhận.Chùa Quan Âm Tự, đối diện Bót Cầu Tre, trên hương lộ số 14.Huệ Lâm Tự, đường Tùng Thiện Vương (Xóm Củi) đang xiêu đổ.Mặc
dù chùa nầy vắng khách, nhưng trước chùa ngày 5-4-1962, tôi còn thấy để
dưới bụi cây bốn phiến đá cổ chạm theo kiểu Khơ Me, không biết do từ
đâu mà chùa có, và để cù bất cù bơ làm vầy. Có người bàn với tôi nên xin
"thỉnh đá" nầy đem về cho nhập vào bộ môn đá cổ của Viện Bảo Tàng. Tôi
thì nghĩ khác: Nếu xin được đá nầy đem về Viện thì không khác nào"gánh
vàng vào kho". Viện đã có đá nhiều, đem về thêm chật, vả lại theo tôi,
đá của chùa Huệ Lâm, kiểu vở còn kém đá của Viện Bảo Tàng, nên sự đem về
đó không cần thiết lắm. Chi cho bằng sẵn đây đề nghị với ban quản trị
của chùa Huệ Lâm, nếu mấy hàng nầy lọt vào mắt xanh quý vị, là nên sửa
sang"chỗ ngồi" xứng đáng cho các phiến đá cổ thạch nầy, trước nữa đề cao
những cổ vật của chùa, sau lại cho khách bốn phương đến cung chiêm tại
chỗ cũng nên lắm. (V.H.S.)Giác Lâm Tự (hẻm số...) đại lộ Thuận Kiều (không đặng đàng hoàng).Phước Long Tự, số 226 đại lộ Hậu Giang.Giác Ngộ Tự, số 36 đại lộ Nhân Vị. Vừa cất xong, khá đẹp.Hưng Tích Tự (tên xưa là Giác Thành Tự), số 253, đại lộ Minh Mạng.Tịnh độ cư sĩ, số 282 đường Nguyễn Tri Phương.Từ Nghiêm Tự, số 415-417 đường Bà Hạt, của nhóm ni cô.Pháp Hội Tự, số 682 hẻm Phan Thanh Giản.Thiên Tôn Tự, đường Nghĩa Thục, kế dưỡng đường An Bình.Pháp Quang Tự, số 163 đườnng Đào Duy Từ.Linh Phước Tự, ngay cầu chữ Y, bến Phạm Thế Hiển.Tịnh Xá Mộc Sơn tự, đường Lương Văn Can.Tịnh độ cư sĩ, đường Lương Văng Can.Huê Huyện (Hing Wen Pit Sut) thờ Lữ Tổ, Văn Xương, Ngũ Âm, của người Huê kiều, ở hẻm Lò Siêu số 9.Ngoài ra, xin bổ túc như sau:Chùa Giác Hải, số 343/45 đường Lục Tỉnh (Phú Lâm).Chùa Gò (Phụng Sơn Tự) ở đại lộ Trần Quốc Toản (Phú Lâm).Chùa Từ Phước, số 60 đường Lục Tỉnh.Chùa Sùng Đức, số 140 đường Lục Tỉnh.Chùa Tuyền Lâm, số 265 đường Lục Tỉnh.Chùa Bửu Lâm, đường Phú Thọ.Chùa Từ Ân, ở đường Tân Hóa (Phú Lâm).Chùa Hưng Long, số 290 đường Minh Mạng.Chùa Ấn Quang, số 243 đường Sư Vạn Hạnh.Đường Lục Tỉnh, số 180 có chùa Huê Lâm (ni cô) đừng lầm với chùa Huệ Lâm, đã nói ở trương 208.Chùa Minh Hương ở đường Hùng Vương, gần ga cũ xe lửa Sài Gòn - Mỹ Tho, ga nầy nay đã phá bỏ.
Sự Phát Triển Của Thiên Chúa Giáo Trong Nam(Địa Phận Sài Gòn )
Tuy
đã nói nhiều về chùa chiền theo Phật Giáo, Khổng Giáo, và Lão Giáo, để
thêm đầy đủ thiên tài liệu, xin tóm tắt đại lược về sự phát triển và
hoạt động của giáo khu đạo Thiên Chúa tại Sài Gòn.Nhắc
lại năm 1884, Hội Truyền Giáo Nam Kỳ xin tách ra làm một giáo khu giám
mục riêng biệt cai trị một địa phận gồm một phần lớn Nam Kỳ và hai tỉnh
miền Trung là Bình Thuận và Đồng Nai Thượng.Cứ
theo thống kê trong bộ "Đông Dương Tân Thời"(L'Indochine Moderne của
hai ông Testeron và Percheron) (trương 235) thì năm 1928 giáo khu giám
mục Sài Gòn gồm có:- Số người theo đạo Thiên Chúa Giáo.....89.250 (89 ngàn 250)- Trụ sở của đức Linh Mục đặt tại Sài Gòn- Thánh đường (églises), tiểu giáo đường(chapelles) và cầu nguyện đường (oratoires) 248- Tu nữ (bà sơ) Dòng Saint-Paul de Chartres 256Kể và 9 trường học (écoler)8 viện trẻ mồ côi (orphelinats)7 dưỡng đường (hôpitaux)1 viện trị phung cùi (léproserie)...- Một số nữ tu sĩ bản xứ coi sóc 14 viện trẻ mồ côi.- 170 trường học địa phương (école pároissiale )số học trò theo học là 14.935 (14 ngàn 935)- 4 viện mồ côi (Nam) - Số học trò là 140- 1 ấn quán.- 2 tờ tuần báo (périodiques).Sài
Gòn có một quản sự tu viện của Hội Ngoại Quốc Truyền Giáo (Procure des
Missions Etrangères) thiết lập năm 1901, đặt ra để tiếp tế các vị tu sĩ
tạm đi qua đây. Như năm 1928, viện đã tiếp rước 122 tu sĩ trong hội và
148 tu sĩ các hội khác, tính chung là 270 tu sĩ ghé Sài Gòn[80].Số
người giữ đạo Thiên Chúa tại Sài Gòn và vùng phụ cận gồm có xóm Thị
Nghè, xóm Chợ Quán, và Xóm Chiếu, tính vào ngày Sài Gòn bị binh Pháp
chiếm (11 tháng 02 năm 1859) là... 27 ngàn công giáo. Lúc ấy giáo khu
Sài Gòn biệt lập như hiện nay chưa có.Ngày
13 tháng 2 năm 1859, ông B.Paul Lộc, tử vì đạo, bị đem ra xử tử (chém
đầu) tại cửa thành, góc đường Hồng Thập Tự và Hai Bà Trưng hiện nay. Đây
là một vị tử đạo duy nhứt của họ Sài Gòn, ngày sau được:- Đức Thánh Léon XIII, ngày 13-02-1879, phong "Vénérable" Đại Đức.- Đức Thánh Pie X, ngày 02-05-1909, phong "Bien-heureux" (Á Thánh).
Ngày Thành Lập Giáo Khu Sài Gòn
(Foundation de la Chrétienté de Saigon)Từ
năm 1848, Hội Truyền Giáo trên Cao Miên (Mission du Cambodge) được giao
cho Đức Cha Miche cai quản. Từ năm 1852, Đức Cha Lefèbvre được phong
đại lý Đức Giáo Hoàng hoặc giáo khu giám mục (vicaire apostilique de la
Cochinchine Occidentale) tại miền Tây Nam Kỳ. Đầu Đức Cha bị triều đình
Nam treo giải thưởng, từ khi khai chiến với Pháp, nhưng Đức Cha Lefèbvre
trốn thoát nạn và ngày 15-02-1859 thì lên được tàu về Pháp.Trừ
hai khu Thị Nghè và Chợ Quán vẫn tách riêng thì cho đến năm 1861, Sài
Gòn, Xóm Chiếu, và vùng phụ cận vẫn chung làm một họ. Tháng 2 năm 1859,
theo chơn quân đội Pháp, Đức Cha Lefèbvre trở về Sài Gòn, chiêu tụ các
tử đệ và người công giáo về lập ấp quy tựu từ đồn Nam (Tân Thuận) chạy
đến kinh Tàu Hũ.Tháng 5 năm 1863, Thủy Sư
Đề Đốc De Lagrandière nghĩ công ơn người công giáo, nên ban phụ cấp cho
Hội Truyền Giáo, mãi đến năm 1882, phụ cấp này mới bị bãi bỏ.Kể ra có công nhiều nhứt là:- Đức Bá Đa Lộc, (Père Le Grand) tịch ngày 9-10-1799.- Đông Cung Cảnh, từ trần ngày 21-3-1800 (cách có mấy tháng).-
Cha P. Liot (nhờ ông nầy nên hai ông Nguyễn Ánh và Bá Đa Lộc quen nhau,
về sau P. Liot làm bí thư và kế nghiệp Bá Đa Lộc) tịch ngày 28-4-1811
(mộ ông ở gần lăng Bá Đa Lộc, được liệt kê cổ tích tháng 5 năm 1930).
Nhà Dòng Saint-Paul
Lối
cuối năm 1860, do yêu cầu của Đức Cha Lefèbvre, nên các bà sơ Nhà Dòng
Saint-Paul de Chartres được phái sang đây, với phận sự là săn sóc trẻ mồ
côi vì cha mẹ chúng bị bắt đạo nên bỏ rơi, và những trẻ vô thừa nhận
của bên lương. Gốc tích nhà Dòng "Thánh Nhi" Sài Gòn (Sainte-Enfance) do
đây mà có. Nhà Dòng nầy lúc ban sơ ở Chợ Cũ, dựa nhà đức Linh Mục; hai
năm sau 1862, Đô Đốc Bonard hiến cho Bà Bề Trên R.M. Benjamin, sở đất
hiện nay ở chỗ ta còn thấy, nên Nhà Dòng dời về đây và lần lượt bành
trướng thêm, gồm có:- Một nhà tu riêng cho các bà sơ Việt Nam.- Một nhà nuôi trẻ con Pháp và trẻ con lai.- Một ký túc xá dạy dỗ nữ sinh con nhà khá giả bản xứ, gọi Trường Nhà Trắng.- Một nhà nuôi trẻ mồ côi và con bỏ rơi bản xứ.- Một nhà nuôi gái bản xứ bị dụ dỗ nay cải thiện.(Tương truyền nhà lầu cao lớn nơi đây là do ông Nguyễn Trường Tộ năm xưa đứng coi xây cất).
Dưỡng Đường Chợ Quán
(Hôpital de Cho-Quan)Dưỡng
đường này do Đức Cha Lefèbvre sáng lập, để nuôi người bịnh tật nghèo
nàn, không phương thế làm ăn, ban sơ cất ở gần nhà Đức Linh Mục, vùng
Chợ Cũ, về sau Nhà Dòng và Chánh Phủ Pháp thỏa thuận giao cho các bà sơ
Dòng Saint-Paul đảm nhiệm nên đem trụ sở về Chợ Quán.
Chủng Viện (Séminaire)
Trước
lập tại Thị Nghè, rồi dời về Xóm Chiếu sau rốt về đường Cường Để như ta
thấy ở giữa Thánh Nhi Viện (Sainte-Enfance) và con đường Nguyễn Du.
Nhà tu Carmel
Ngày
3 tháng mười năm 1861, có bốn bà nữ tu sĩ dòng Saint-Thérèse, đến Sài
Gòn, nhiệm vụ là lập nhà tu Carmel. Trụ sở ở đường Cường Để, ngang Chủng
Viện.Các vị Sư Huynh Trường Công Giáo(Les Frères des Ecoles Chrétiennes)Nhơn
lời yêu cầu khẩn thiết của Đô Đốc De Lagrandi ère, nên năm 1866 có sáu
vị sư huynh sang Sài Gòn do đại sư huynh T.H. Frère Philippe Supérieur
des Frères des Ecoles Chrétiennes biệt phái. Qua đến đây thì cách ít lâu
sau, Nhà Dòng giao cho các vị ấy trông nom trường trung học Collège d
'Adran là trường do Đức Cha Puginier thiết lập từ hai năm trước (1864).
Trường nầy hoạt động cho đến tháng chạp năm 1882, thì đóng cửa, vì hội
đồng quản hạt Nam Kỳ đề nghị ngưng cấp học bổng.Trường TaberdNăm
1874, Cha Henri de Kerlan, cha sở coi thánh đường Sài Gòn, tự xuất tiền
riêng, sáng lập trường Taberd (vì thế nên nay còn hình bán thân của Cha
tại sân trước), đầu tiên là để dạy dỗ các Tây Lai, sau nầy mới đổi
thành chánh sách, thâu nạp tất cả các học sanh, bất luận lương, giáo.
Ban đầu các học trò nơi đây do các tu sĩ, truyền giáo sư (missionnaire)
dạy dỗ. Từ năm 1889, thì các sư huynh thay thế các vị nầy trong đường
giáo huấn, và các sư huynh trường Công Giáo (Les Frères des Ecoles
Chrétiennes) buổi đầu tiên là do Đức Cha Colombert mời qua. Những dãy
nhà cũ của trường là do Đức Cha Mossard đứng coi xây cất, lớp sau mới là
của các sư huynh tiếp tục tu tạo thêm mới được đồ sộ như ngày nay.
Trường vốn là sản nghiệp riêng của Hội Truyền Giáo (Mission). Cũng như
trường Trung Học Chasseloup-Laubat, về sau trở nên trường Trung học
Jean-Jacques Rousseau, trường Taberd rất có công trong việc đào tạo nhơn
tài trong xứ trong nhiều thế hệ liên tiếp. Thanh danh rất lớn. Được
nhiều cảm tình.
Dưỡng Đường Quân Binh
(Hôpital Militaire)Năm
1864, nhà thương nầy thuộc các bà sơ Dòng Saint Paul coi sóc. Qua năm
1904, chế độ nầy cáo chung và từ ấy các nữ y tá ngoại đạo trông nom. Tuy
vậy chánh phủ Pháp vẫn tiếp tục trợ cấp một siêu độ sư (aumônier) đến
để thăm viếng vấn an bịnh nhân cùng làm phép bí tích nếu cần.
Vương Cung Thánh Đường Sài Gòn
(Basilique de Saigon)BáoCách
Mạng Quốc Gia , số 406 xuất bản ngày 6 và 7 tháng chạp năm 1959, có bài
khảo cứu rất đầy đủ về lịch sử nhà thờ Đức Bà do ông Phạm Đình Khiêm
viết. Đây là tài liệu khác do bộ "Đông Dương Tân Thời"(L'Indochine
Moderne) của hai tác giả Pháp Testeron và Percheron viết từ năm 1931."Từ ngày Pháp chiếm Sài Gòn, Đức Cha hành lễ tại một ngôi chùa hoang phế và sửa tạm dùng làm thánh đường.Năm
1863, Đô Đốc Bonard truyền lịnh dựng nơi ngày nay là trụ sở Tòa Tạp
Tụng đường Nguyễn Huệ, một thánh đường bằng gỗ, nhưng thánh đường nầy,
mười năm sau thì mối mọt ăn mục nát không còn dùng được nữa.Năm 1874, phải dọn về phòng khánh tiết của dinh cũ Phó Soái Nam Kỳ, chỗ nhà trường Taberd hiện nay và tạm hành lễ nơi đây.Đô
đốg Duperré truyền đem việc xây cất thánh đường ra đấu thầu, và sau
rốt, thì công việc tạo tác do ông Bourard được mời từ Paris qua đôn đốc.Ngày 7 tháng 10 năm 1877, Đức Cha Colombert đặt viên đá đầu tiên trước mặt Phó Soái Nam Kỳ và đông đủ nhơn vật tai mắt thời ấy.Ngày 11 tháng 4 năm 1880, ăn lễ lạc thành rất lớn.Tiền
xây cất, tiền sắm từ khí nội tâm, Soái phủ Nam Kỳ đài thọ tất cả, là
hai triệu năm trăm ngàn (2.500.000) quan tiền Tây thưở đó.Thánh đường đo được 133 thước Tây từ cửa ngăn (porche) đến mút chót phòng đọc kinh (chevet).Hành lang (transept) đo 35 thước bề ngang.Cao: từ đá xây cuốn trốc khung (clef de voute) đụng đất cái là 21 thước.Hai
tháp cao từ mặt đất là 36 thước 60.
Sau thêm hai cánh chóp nhọn lầu
chuông 21 thước nữa là tất cả cao 57 thước (tháp chuông làm năm 1895).
Sáu đại đồng chung, nặng 25.850 kí (tiếng gồm sáu âm) đặt dưới hai lầu
chuông.
Lễ nghi xức dầu đền thánh đặt làm "Vương Cung Thánh Đường" (Basilique) được cử hành long trọng ngày 7 và 8 tháng chạp năm 1959. Và Sài Gòn hãnh diện có một Vương Cung Thánh Đường từ đây, một vinh quan của Viễn Đông.
Lễ nghi xức dầu đền thánh đặt làm "Vương Cung Thánh Đường" (Basilique) được cử hành long trọng ngày 7 và 8 tháng chạp năm 1959. Và Sài Gòn hãnh diện có một Vương Cung Thánh Đường từ đây, một vinh quan của Viễn Đông.
Sau đây là danh tánh các linh mục Giáo Hoàng đại lý, giáo khu giám mục Miền Tây Nam Kỳ từ năm 1852 đến năm 1926:
Dominique Lefèbvre............................................. 1852 - 1865
Jean-Claude Miche.............................................. 1865 - 1873
Isidore Colombert............................................... 1873 - 1894
Jean-Marie Dépierre............................................. 1895 - 1898
Lucien Mossard...................................................1898 - 1920
Victor - Charles Quinton.......................................1920 - 1924
Isidore Dumortier.......................từ năm 1926...
Và những vị cố đạo (missionnaires apostoliques):
Oscar de Noloberne.........................................1863 - 1871
Henri de Kerlan...............................................1872 - 1877
Henri Le Meé..................................................1877 - 1898
Anselme Delignon (vicaire)................................1898 - 1899
Henri Moulins..................................................1899 - 1900
Charles Boutier...............................................1900 - 1906
Eugène Soulard, từ năm 1906.Và vân vân...(theo tài liệu bộ "L'Indochine Moderne" của Teston và Percheron, ngưng năm 1926, thiếu tài liệu từ năm ấy đến hiện nay.)
Đình thờ thần
Các đình thờ thần xưa của đất Sài Gòn nay đã mất đi rất nhiều, nay chỉ còn nhắc tên và biết được vài đình mà thôi.Tại Sài Gòn:- Mỹ Hội- Hòa Mỹ- Tân Khai- Long Điền- Trường Hòa- Long Hưng- Phú Hoà (còn)- Phú Thạnh (còn)- Nam Chơn (còn)- Tân An (còn)- Chợ Quán (còn)- Cầu Kho (còn)- Cầu Quan (còn)Trong Chợ Lớn:- Phú Định (bỏ rồi)- Phú Hòa (bỏ rồi)- Phú Lâm (còn)- Cây Gõ (dẹp, cất trường Cây Gõ sau đổi tên là trường Minh Phụng)- Phú Hữu (còn)- Minh Phụng (còn)- Bình Tiên (còn)- Bình Tây (còn)- Tân Hoà Đông (còn)- An Bình- Cầu Tre (còn)v.v...
-----------
[76]Huỳnh
Công Lý, sanh tiền cậy thế “quốc trượng” làm nhiều điều ngang ngược,
chết bị xử trảm. Còn lại nấm mồ, công vua xây, tưởng đâu êm ấm, ngờ đâu
mấy chục năm trước, chính mắt tôi trông thấy người trong xóm lên án bằng
cách phóng uế, xú khí bốc lên đêm ngày, kịp khi mở đường Cao Thắng,
lưỡi cuốc vô tình lật nắm xương lên, dời qua quách nhỏ vùi một nơi nào
nay không biết được, thảm làm sao! Chẳng qua tại lòng Trời, tự mình muốn
khói hương tồn tại như ai nào được .
[77]Gia
Khánh Hoàng đế của Mãn Thanh, trị vì xứ Trung Hoa từ năm 1796 đên năm
1820. Người chết đem theo quạt “Gia Khánh”, lấy đó mà suy cứu định cho
những năm này, còn chưa ngã ngũ, niên hiệu “Gia Long” chưa được nhìn
nhận chính thức. Mà nếu vậy tại sao không dùng niên hiệu “Cảnh Hưng” đời
Lê, khó hiểu vậy thay?
[78]về sau nhờ
khéo điều đình, hội Phú Trung mua lại phần đất có ngôi mộ và đền thờ,
diện tích 709 m2, (tờ đoạn mãi lập ngày 26/9/1953, Me Bérenger)
[79]Đi xích phê: đi thơ thới, khoan thai (Đại Nam Quốc Âm tự vị.)[80]Tòa nhà làm Procure cất trên dinh Tả Quân, và xây từ năm 1869 đến năm 1877 mới xong.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét