23 tháng 12, 2014

Mời các kỳ thủ ra tay ...

Nghỉ lễ ở nhà làm gì , mời các anh chị và các bạn mê cờ tướng ra tay ...

Bên cờ đen chữ trắng " gọi là quân trắng " đi trước  ...

Cười chút chơi ...




Một thương em trắng như Miên
Hai thương miệng móm có duyên vô cùng
Ba thương ngáo ngáo khùng khùng
Bốn thương vừa mập vừa lùn rất xinh
Năm thương hai má em phình
Sáu thương mắt hí đa tình làm sao
Bảy thương răng tựa hàng rào
Tám thương mắt lé giận nhau cả ngày
Chín thương nải chuối bàn tay
Mười thương mũi xẹp cả hai như mèo


Bia độc hơn rượu vì ....trên thế giới này chưa ai tìm thấy " mộ rượu " mà chỉ toàn là " mộ bia " .


Khi yêu nhau , người ta thề sẽ " sống chết có  nhau " . Lúc hết yêu họ lại cũng thề với nhau ... nhưng lại là
 ... " sống chết với nhau " .


Bước tới nhà em , ớn quá hà
Đứng chờ nửa tiếng Tía em ra
Lăm lăm trước mặt vài con chó
Lấp ló sau lưng ... cái chổi chà
Hoảng hốt co giò ...anh mất dép
Ngoác mồm hí hửng ... Tía ha ha
Vậy mình ...chém trước, tâu sau nhé
Gạo nấu thành cơm ...ổng hết la .


Trăm năm bia đá cũng mòn
Bia chai cũng bể , chỉ còn .... bia ôm ?




Tài và Tuổi ...?

  Tài không đợi tuổi .
và ...
.... Tài không cập tuổi ... 

Mật Mã Tây Tạng _ Quyển 2

Mời các anh chị và các bạn nghe tiếp quyển 2 .

























Người quét chợ


VĨNH HẢO

      "Nhớ dâng trà cúng sư thúc và dì Linh nghe con?" . thầy nhắc chú tiểu khi thấy chú sửa soạn lên chánh điện để cúng ngọ. 
      "Bạch thầy con nhớ," chú đáp. 
     Đó là câu mà thầy cứ nhắc chú mỗi ngày trước mỗi thời kinh . Chú chẳng biết sư thúc là ai , dì Linh là ai. Trên chiếc bàn thờ nhỏ đặt cạnh bàn Tổ, chú chỉ thấy hai cái bài vị được viết bằng chữ Hán chứ chẳng có hình ảnh gì cả . Vì thầy nhắc mãi nên chú không lúc nào quên, vậy mà thầy cứ nhắc . Nghe nhắc hoài, ban đầu chú hơi bực mình , nhưng riết rồi cũng quen . Và khi chú rót trà cúng cho hai người đó, chú cũng làm như một cái máy chứ không suy nghĩ gì .Chùa chỉ có một thầy một trò, nên thầy thương chú lắm và chú cũng quí kính thầy vừa như cha mẹ, vừa như thầy và thỉnh thoảng như một người bạn đạo . 

    Chú không có tên thế tục . Chú chẳng hiểu lý do vì sao . Có lẽ vì chú sống ở chùa từ nhỏ nên thầy đã không đặt tên thế tục cho chú mà chỉ đặt cho chú một pháp danh là Thanh Thị . Chú lớn lên ở trong chùa, quen với tên gọi mà thầy đặt cho, chẳng thắc mắc gì . Nhưng đến khi được thầy dạy cho học chữ Hán , chú mới hiểu được cái tên đọc nghe như tên con gái của mình lại có một ý nghĩa kỳ cục, không được thanh nhã cho lắm . Nó có vẻ như được đặt ra để đánh dấu một kỷ niệm nào đó của thầy, hoặc cho chính chú. Chú băn khoăn suy nghĩ mãi về ý nghĩa của cái tên mà mình đeo mang . Nhân lúc cùng thầy nhổ cỏ sau vườn chùa , chú hỏi: 
    "Bạch thầy, tại sao thầy đặt tên con là Thanh Thị?" .  "Vì thầy thích đặt như vậy," thầy chú thản nhiên trả lời . 
    "Lâu nay con tưởng rằng chữ thị có nghĩ là đây, như vầy, giống như chữ thị trong như thị, đích thị hoặc chữ thị như trong biểu thị, thị hiện ... nhưng mới hôm qua, thầy viết tên con bằng chữ thị có nghĩa là chợ. Con không rõ là tên con sao lại có cái nghĩa không được hay . Xin thầy giải thích cho con". 
   Thầy nghiêm giọng nói: "Chỉ là tên gọi thôi, có gì mà phải bận tâm, nhổ cỏ đi". Chú cúi xuống nhổ cỏ tiếp, nhưng được một lúc, chú lại hỏi:
     "Con biết đó chỉ là tên gọi thôi, nhưng tên gọi cũng phải nói lên một cái gì, một ý nghĩa gì chứ ?" .    "Thì chợ cũng là một cái gì, một ý nghĩa gì rồi đó," thầy đáp. 
    "Con thấy chợ chỉ có ý nghĩa là dơ, ồn ào, phức tạp... toàn là xấu không à . Con không tìm ra được ý nghĩa nào hay đẹp ở trong nó . Khi thầy đặt tên con, chắc chắn là thầy có nghĩ đến một ý tưởng hay một hình ảnh gì đó về cái chợ , phải không , bạch thầy?" .
    "Nhiều chuyện quá," thầy nói, "nhổ cỏ đi".

 Chú im lặng nhổ cỏ, không dám hỏi nữa. Nhưng trong đầu óc chú bắt đầu nẩy ra những suy tưởng, những phán đoán về sự đặt tên của thầy. Chú nghĩ , năm nay chú đã mười sáu tuổi rồi , có thể nói là chú đủ trưởng thành để nghe thầy kể về lai lịch của chú . Lâu nay mỗi lần chú hỏi đến vấn đề đó, thầy chỉ nói là chú chưa trưởng thành , chưa đến lúc cần biết . Nhưng dù thầy chẳng nói ra , chú cũng không đến nỗi ngu độn để không biết rằng chú là một đứa bé mồ côi . Ai cũng có cha mẹ, riêng chú không có . Cái thực tế đó làm gì thầy che dấu được. Nhưng tại sao lại đặt tên là Thị , có nghĩa là chợ ? 


   Có lẽ... có lẽ cha hay mẹ của chú là người bán hàng ngoài chợ , hoặc là người chủ chợ . Nhưng ba mẹ chú đâu mà để cho thầy phải đặt tên ? Cũng có thể mẹ chú đi ngang chợ thì sinh ra chú . Không, nếu mẹ chú sinh ra chú ở chợ thì cũng đem về nhà , và chú vẫn còn người mẹ đó chứ chú đâu có mồ côi để cho thầy phải đặt tên! Hay là... hay là thầy lượm được chú ngoài chợ , đem về chùa nuôi cho đến ngày hôm nay? Chính vì kỷ niệm đó mà thầy đặt tên cho chú là Thị (chợ)?
    "Bạch thầy..." chú không ngăn được nỗi háo hức tìm hiểu thân phận mình, lại mở miệng hỏi.
    "Gì nữa đây?" thầy không nhìn chú .
    "Có phải... có phải con là đứa con rơi thầy lượm ở ngoài chợ đem về hay không?". Thầy ngưng tay nhổ cỏ.
   Im lặng một lúc, thầy tiếp tục nhổ, nói: "Nhổ cỏ".

Đến chiều, sau giờ ăn cháo, thầy gọi chú cùng dạo sân với thầy . Hai thầy trò tản bộ cho đến vườn sau , nơi có hai ngôi mộ mà thỉnh thoảng chú thấy thầy ra thắp hương . Một cái mộ thì chú biết là của sư thúc chú , còn cái còn lại chú chẳng biết của ai và cũng không để ý lắm . 

   "Con đã dâng trà cho sư thúc và dì Linh lúc công phu chiều rồi hả?" thầy hỏi . 
   "Bạch thầy, rồi," chú trả lời như máy . Thầy nhặt mấy chiếc lá nằm trên mộ sư thúc , nhổ vài bụi cỏ mới mọc quanh hai ngôi mộ . Rồi thầy bắt đầu kể chuyện cho chú nghe .

*****

     ... Thầy Hải Chấn đang ngồi đọc sách thì Hải Thanh , sư đệ của thầy , bước vào, mặt buồn dàu dàu . Hải Chấn hỏi:

    "Gì mà sư đệ có vẻ rầu lo vậy? " Hải Thanh buồn bã đứng nhìn ra cửa sổ một lúc rồi nói: 
    "Đệ... đã phạm giới..." Hải Thanh nói đến đó thì rơi nước mắt. Hải Chấn kéo tay sư đệ ngồi xuống, vỗ về: 
   "Có trầm trọng lắm không? Đệ đã sám hối chưa?"
   "Đã sám hối. Nhưng đó là cho tự tâm. Không giải quyết gì được cho hoàn cảnh".
   "Chuyện gì vậy? Nói đi, để xem huynh có thể giúp gì cho đệ không".
   "Huynh đừng trách mắng đệ nghe...". 
  thù "Phạm tội thì sám hối, ăn năn; huynh trách mắng có thay đổi gì được đâu! Nói đi, đừng chất chứa trong lòng," Hải Chấn nói với giọng đầy cảm thương. 
   Hải Thanh đưa hai tay ôm lấy đầu, mặt gục xuống bàn, nói: "Cô ấy đã có mang".
   Hải Chấn sửng sốt một lúc, rồi thở dài, hỏi: "Cô ấy là ai vậy?" 
    "Sư huynh không biết đâu. Cô ấy không hề đến chùa mình".
    "Vậy làm sao đệ quen để đến nỗi..."."Thôi, huynh hỏi làm gì chuyện đó cho mệt. Bây giờ, đệ chỉ hỏi huynh một điều là đệ phải làm sao đây?".

   Hải Chấn nhíu mày, thấy khó xử. Theo luật, Hải Thanh đã phạm một trong các tội Ba-la-di, tức những trọng giới mà đương sự bị coi như mất cả giới thể, không còn là Tỳ-kheo thanh tịnh nữa, không thể chữa được nữa - như cây dừa, cây cau, đã chặt đi khúc đầu (đoạn đầu) thì không thể mọc lại tàu lá mới. Đã tới nước đó thì Hải Chấn biết góp ý với Hải Thanh điều gì nữa.

   Hải Chấn thở dài nói: "Huynh cũng chẳng biết phải góp ý với đệ làm sao. Chuyện không đơn giản đâu. Đệ phải nói rõ sự việc may ra...

   Hải Thanh ngập ngừng lúc lâu rồi kể: "Cũng vì cái hạnh quét chợ mà đệ vướng phải nghịch cảnh này. Huynh cũng biết mà, mỗi sáng đệ quét từ sân ra tới chợ, mặc ai cười ai chê, đệ quét thì cứ quét, vừa quét vừa quán niệm về sự cấu bẩn của thế gian và thanh tịnh của niết bàn... năm này qua năm nọ, mưa hay nắng, đệ cũng không bỏ ngày nào. Thế rồi... cô ấy lưu ý đến đệ. Và... một ngày nọ, đệ sa ngã". 
   "Buồn thay cho đệ. Cô ấy bán ngoài chợ à?".
    "Không, cô chỉ đi ngang chợ thôi."
    "Vậy bây giờ gia đình cô ấy đã biết rằng chính đệ đã làm... cái chuyện gì đó chưa?" 
   "Chưa, cô ấy không nói ra là ai. Nhưng... có lẽ có ngày họ cũng biết. Mà họ có biết hay không thì... mình cũng phải tự liệu.
   "Tự liệu?"
    "Ý đệ nói là mình phải giải quyết vấn đề đó bằng cách đến nói chuyện với gia đình cô ấy, xin hỏi cưới cô ấy, hoặc là... đệ cùng cô ấy trốn đi xa để khỏi mang tai tiếng cho gia đình cô ấy và cho chùa nữa."
    "Nghĩa là đệ sẽ hoàn tục?" 
    "Chứ biết sao bây giờ. Anh có cách gì hay hơn không?"

Hải Chấn ứa nước mắt, thương sư đệ mình gặp nghịch duyên đến phải bỏ đường tu, nhưng chẳng biết phải giúp bằng cách nào. Hải Chấn ngồi lặng thinh. Một chặp, Hải Chấn nói:

   "Huynh chẳng biết cách nào hết, mong đệ tha thứ cho sự chậm lụt của huynh. Huynh nghĩ chắc phải làm theo một trong hai cách mà đệ nêu ra thôi. Mà cho dù chọn giải pháp nào, huynh cũng xin lưu ý đệ một điều rằng đệ nên giải bỏ hình thức tăng sĩ trước khi...". 
   "Đệ hiểu."

    Hai huynh đệ im lặng, mỗi người một dòng suy tưởng. Hải Chấn nhớ lại bao kỷ niệm mà thầy cùng Hải Thanh trải qua nơi ngôi chùa này từ thuở còn để chóp đến nay. Hải Thanh thông minh, nhanh nhẹn mà lại siêng năng nên cái gì cũng vượt qua mặt sư huynh. Nhưng đến khi sư phụ sắp viên tịch, sư phụ lại giao trọng trách trụ trì cho Hải Chấn. Lúc đó Hải Chấn đã không nhận vì cho rằng sư đệ vượt trội hơn mình quá nhiều. Hải Thanh cũng không chịu nhận chức trụ trì, còn sư phụ thì nhất quyết phải giao chức ấy cho Hải Chấn dù Hải Chấn học hành chậm lụt. Rốt cuộc Hải Chấn phải nhận. Giờ ra đi, sư phụ không nói gì nhiều ngoài việc khuyên răn hai huynh đệ nương nhau tu tập, và những lời cuối cùng của sư phụ đều nhắm vào Hải Thanh, cảnh giác Hải Thanh là không nên chú trọng vào sở kiến sở văn mà bỏ quên phần tu tập. Sau khi sư phụ mất, Hải Thanh thức tỉnh, nỗ lực tu tập, không bao giờ chểnh mảng.


    Rồi một ngày đó, Hải Thanh bỗng phát nguyện quét luôn cả chợ thay vì chỉ quét sân chùa. Hải Chấn không ngăn cản chi hạnh nguyện của sư đệ mình vì nghĩ rằng đó cũng là hạnh tốt thôi. Hải Thanh cho rằng hình ảnh người tu sĩ hiền lành nhẫn nại có mặt nơi phố chợ đông người sẽ cảm hóa và gây được tín tâm cho nhiều người. Ngoài ra, quét chợ cũng là một cách tu luyện cho tâm được định tĩnh ngay giữa chốn náo động. Không ngờ, chính cái hạnh nguyện cao đẹp đó lại đốn ngã Hải Thanh trong một nghịch duyên đau xót.

    Hải Thanh không ôn lại kỷ niệm xưa mà chỉ ưu tư vấn đề xảy ra trước mắt. Hải Thanh nhớ đến Thùy Linh, cô gái đã có mang với mình. Cô ấy rất đẹp và là một tiểu thư con của quan huyện. Với sự thông minh vốn có, lại thêm sự giúp đỡ bày mưu của cô nữ tì, cô ấy đã tạo đủ điều kiện để lôi kéo Hải Thanh ngã vào vòng tay mình. Từ những phút đầu Hải Thanh đã biết mình rơi vào lưới tình, nếu không thức tỉnh quay lại ngay với thiền môn thì khó bề giữ gìn được đạo hạnh của mình, nhưng bóng sắc lộng lẫy kiêu sa của nàng đã không để cho Hải Thanh chùn bước mà còn kéo thầy lậm sâu thêm vào cơn men ái dục. Bây giờ chuyện đã lỡ rồi, không cưỡng lại được nữa. Hải Thanh muốn rủ Thùy Linh cùng bỏ huyện này trốn đi với mình qua xứ khác sinh sống và cũng để tránh tiếng cho cả đôi bên, nhưng Thùy Linh không dám. Nàng đã ở lại để rồi không che dấu được cái thai càng lúc càng lớn. Nàng đã bị cha đánh đập, mắng chửi dữ dội. Hải Thanh nghe nữ tì nói lại như vậy nhưng chẳng biết phải làm sao. Nhiều lúc Hải Thanh muốn lẻn vào tư dinh quan huyện để cứu nàng ra khỏi đó, nhưng lính gác canh phòng nghiêm mhặt, không cách gì vào được. Dù đã từng xem thế sự như một giấc mộng hư huyễn, trước tình cảnh đau xót mà Thùy Linh phải hứng chịu, Hải Thanh không khỏi nghe tan nát trong lòng.

    Đêm đó, hai huynh đệ ngồi thức trắng bên bàn sách . Đến lúc mờ sáng, Hải Thanh mới rời phòng sách vào phòng riêng, lấy khăn chít lấy đầu để che dấu cái đầu tròn tu sĩ của mình, thay đổi y phục như một người thế tục rồi từ giã Hải Chấn mà đi .

    Hải Chấn hỏi: "Đệ đi đâu vậy?". 
    "Đến tư dinh quan huyện để nói chuyện thẳng với cha cô ấy". 
   "Sao huynh thấy ái ngại cho chuyến đi này của đệ quá. Thấy có gì không ổn. Đệ liệu có thể thuyết phục được cha mẹ cô ấy không?" . Hải Thanh không đáp, chỉ nhún vai rồi đi . 
   Hải Chấn níu lại, dúi vào bọc vải của sư đệ một túi tiền nhỏ: "Đó là tiền riêng của huynh, không phải của chùa đâu, đừng ngại. Đệ mang theo để có gì...".
    "Cám ơn huynh. Đệ đi đây. Nếu có tin tốt đẹp, đệ sẽ cùng Thùy Linh ghé thăm huynh trước khi rời xứ này". Và Hải Thanh đi luôn, không trở lại. Hải Chấn bồn chồn lo lắng suốt cả ngày và đêm hôm đó.

    Sáng hôm sau, khi Hải Chấn ra vườn thì thấy xác Hải Thanh nằm ở trước sân chùa, thân thể tím bầm vì bị đánh đập đến tắt thở. Hải Chấn đến khiếu nại với quan huyện nhưng huyện đường đóng cửa, lính gác xua thầy về. Thầy đành ngậm ngùi chôn xác sư đệ sau vườn chùa. Nghĩ rằng có làm to chuyện lên thì sư đệ nhắm mắt cũng không được yên.

    Hai tháng sau, Thùy Linh sinh hạ một bé trai . Nửa đêm nàng lẻn trốn khỏi dinh, mang con ra chợ, ngồi nơi sạp hàng mà ôn lại chuyện xưa khi nàng đi ngang đây và bắt gặp nhà sư quét chợ lạ kỳ. Nàng ngồi giữa trời sương cho đến sáng thì chết, tay vẫn còn ôm đứa bé sơ sinh đang khóc. Quan huyện lâu nay cố che dấu chuyện con gái mình nhưng nay, cái chết của Thùy Linh ngay giữa chợ đã làm cho câu chuyện nhanh chóng truyền đi; ông bực dọc và căm giận đến độ sai lính treo bảng thông báo rằng ông đã từ đứa con trắc nết phá hoại gia phong, rằng ông không chịu trách nhiệm về cái chết của Thùy Linh cũng như không chấp nhận đứa con của người quét chợ. 


   Thông cáo của ông có vẻ như ngầm phán rằng đứa bé phải chịu chết giữa chợ đời, không ai được phép cứu nó. Vì uy quyền hống hách cũng như sự giận dữ của quan huyện, không ai dám mang đứa bé sơ sinh về nuôi. Người ta gỡ đứa bé khỏi vòng tay lạnh giá và cứng đờ của mẹ nó rồi đặt nó nằm trong một chiếc nôi, để giữa chợ để chờ kẻ nào động lòng trắc ẩn đến mang nó đi. Những người đàn bà bán hàng ngoài chợ đã chăm lo sữa cho đứa bé suốt ngày đó, nhưng cũng không ai chịu nhận đứa bé về. Còn xác Thùy Linh thì được quấn sơ sài bằng một cái chiếu, đặt ở gần đó. Đến chiều tối thì chuyện đến tai Hải Chấn. Thầy liền tức tốc ra chợ, ôm chiếc nôi nhỏ mang về chùa. Còn xác Thùy Linh, thầy bảo những người Phật tử bán hàng ở chợ giúp đem về chùa chôn. Ấy vậy mà quan huyện không dám động đến Hải Chấn vì cả nể đức hạnh và uy tín của thầy. Đứa bé được yên thân sống và lớn lên trong cửa chùa.

*

    Nước mắt ràn rụa trên hai gò má bầu bĩnh, chú tiểu Thanh Thị quì xuống chân thầy: "Tạ ơn thầy cứu sống và nuôi dưỡng con".

    Thầy đỡ chú dậy, nói tiếp: "Sư thúc của con có ảnh thờ trong chùa mà thầy thường nhắc con rót trà dâng cúng chính là Hải Thanh cha của con đó. Sư thúc với thầy tu học với nhau từ nhỏ nên ngoài tình đạo bạn còn coi nhau như anh em ruột. Chuyện của sư thúc khiến thầy đau lòng quá mà không biết giúp bằng cách nào. Nuôi dưỡng con chỉ là một chuyện nhỏ để biểu lộ sự mến tiếc của thầy đối với sư thúc thôi. Huống chi, làm sao thầy có thể bỏ mặc một đứa trẻ kêu khóc không người đoái hoài..." Chú tiểu Thanh Thị bây giờ đã hiểu vì sao chú có cái tên lạ kỳ đó: Thanh là tên của cha chú còn Thị chính là chợ, là nơi ghi lại kỷ niệm chua xót đầu đời của cha chú, mẹ chú, và cả chú nữa.

"Vậy quan huyện hiện nay chính là ông ngoại của con hở, bạch thầy?" 

    "Không ! Ông và phu nhân đều đã qua đời. Quan huyện hiện nay là người mới được bổ nhậm đến".   
   "Vậy những người ở ngoài chợ... đều biết chuyện của con hở thầy?".
    "Mười sáu năm rồi, nhiều người đã dọn đi xứ khác, nhiều người đã chết, chỉ còn lại rất ít người là biết chuyện của con, nhưng chắc họ cũng quên khuấy đi rồi. Mà sao con hỏi vậy?Con không muốn người ta biết rằng con đã xuất thân từ đâu, phải vậy không?" 
   "Bạch thầy không phải, không phải".
    "Như vậy thì tốt. Nhân cách không nằm ở chỗ xuất thân từ đâu mà từ chính giá trị thực có của mình". 
    "Dạ, con biết," chú cúi mặt nói nhỏ.

    Theo như lời thầy kể, rồi nhìn hai ngôi mộ song song trước mặt, đọc những chữ Hán viết trên mộ bia, chú thấy rõ đó chính là song thân của mình. Chú quỳ xuống nhìn thật lâu nơi hai mộ bia, lặng người một lúc lâu, chú bật khóc thảm thiết. Vậy đó mà chú vẫn không sao tẩy xóa được nỗi mặc cảm đè nặng trong tâm khảm mình: rằng chú là một đứa trẻ vô thừa nhận, được sinh ra bởi một người cha tu sĩ phá giới, một người mẹ khuê các phá gia phong; rằng chú bị bỏ rơi giữa chợ đời như một tội nhân tử hình ngay từ lúc sơ sinh. Bao nhiêu ý nghĩ đó ám ảnh chú suốt mấy ngày kế tiếp sau khi nghe thầy kể rõ sự tình. 


    Thầy theo dõi từng biến động tâm tư hiện trên mặt chú, bèn gọi chú hỏi chuyện: "Con sẽ mang buồn cho đến bao giờ? Có sinh tức có diệt, sao phải ôm mãi nỗi đau khổ biệt ly như thế!". 
   Chú lặng thinh không đáp lời thầy. Thầy biểu lộ tình cảm, lấy tay xoa đầu chú: "Thương cha mẹ, con rán tu học để cha mẹ vui lòng. Cha con là một tu sĩ thông minh, có tuệ căn, làu thông kinh điển. Chỉ một phút yếu lòng mà đánh mất sự nghiệp cao cả. Con có thương cha thì nối tiếp sự nghiệp đó mới phải, sao cứ ôm lòng buồn rầu mãi. Con đến rót trà dâng ba đi, rồi lên tụng kinh". 
   Chú cúi mặt bặm môi một chặp, bỗng ngước lên nói: "Chỉ có thầy mới xứng đáng là cha con thôi. Ông ấy không phải là cha con!" Nói rồi chú vụt đứng dậy, bỏ đi vào phòng riêng, đóng cửa lại. Thầy sững sờ ngồi nhìn theo, lắc đầu buồn bã. Chú bỏ tụng kinh chiều hôm đó. Thầy lặng lẽ đắp y áo, thắp hương, rót trà cho sư đệ Hải Thanh rồi thầy tụng kinh thay chú.

    Suốt mấy ngày, chú vẫn không ra khỏi phòng. Thầy đến gõ cửa, gọi mãi mà không được. Mọi việc trong chùa thầy làm thay chú hết. Chú không ra khỏi phòng nên cũng nhịn ăn luôn cả mấy ngày. Hai thầy trò sống bên nhau mười sáu năm rồi, chưa lần nào vào bữa ăn mà thiếu thầy hay thiếu trò. Cho nên, khi chú nhịn, thầy cũng nhịn theo, không buồn ăn nữa, chia xẻ với chú nỗi đau khổ nặng nề của chú. Đến ngày thứ tư, chú mới mở cửa bước ra, phờ phạc, bệnh hoạn. Chú đến quỳ dưới chân thầy và khóc nức nở. Thầy chỉ lấy tay xoa đầu chú. Hai thầy trò bỗng dưng mà sống một cuộc sống lặng câm, buồn tẻ. Thầy để chú tự do trong những suy tưởng riêng tư của chú chứ không gợi chuyện gì với chú cả. Không khí trong chùa vì vậy mà nặng nề.

    Cho đến một ngày nọ, sau khi cùng làm lễ sám hối với thầy xong, chú mới cất được gánh nặng trong lòng. Chú thưa với thầy: "Con đã sai lầm. Con không thể phủ nhận công ơn sanh thành của cha mẹ".

    "Tốt, con biết vậy là tốt. Mẹ con vì sinh mạng của con, vì muốn lưu giữ giọt máu và hình bóng của cha con mà nhẫn nhục sống giữa bao lời xỉ vả, bao trận đánh đập của gia đình để chờ ngày sinh ra con. Mẹ con tuy phá gia phong nhưng, theo thầy, bà là người tinh mắt, thông minh, một phụ nữ đức hạnh biết vượt lên cái hình thức bề ngoài để nhìn thấy được giá trị tinh thần nơi cha con. Còn cha con, tuy phạm cấm giới, nhưng biết ăn năn, biết trách nhiệm, đã can đảm bước vào tư dinh của ông ngoại con với ước mong là cứu được hai mẹ con ra ngoài... và cha con đã chết vì dám đứng ra đối đầu với nguy hiểm. Với truyền thống, với tập tục, cả hai đều bị lên án. Nhưng họ đã chết một cách cao cả, ít nhất là đối với sinh mạng của con, phải khôngở một khía cạnh nào đó, một hoàn cảnh đặc biệt nào đó, con sẽ thấy rằng cái mà người ta gọi là truyền thống, tập tục, gia phong, lễ giáo v.v... thật ra chẳng là gì cả. Rỗng tuếch! Chỉ có những tấm chân tình mới thực sự là có ý nghĩa mà thôi".
   "Dạ, con hiểu," chú nói trong giọng xúc động và tri ân thầy đã chỉ giáo.

   Chú không dám coi thường cha mẹ mình nữa. Chú thăm mộ cha mẹ hàng ngày, chú rót trà dâng cha mẹ vào mỗi thời kinh. Sư thúc và dì Linh, chú không còn gọi hai tên đó nữa mà gọi bằng cha mẹ. Chú cảm thấy có cái gì ngọt ngào và khiến chú ấm lòng khi gọi lên hai tiếng cha mẹ đó. Tuy nhiên, trên thực tế, chú chỉ vui sướng sống trong tình cảm và vòng tay vô hình vô ảnh của cha mẹ; còn đối với những mặc cảm về thân phận mình, chú vẫn không sao tẩy xóa đi một cách thoải mái được. Đến nỗi khi đi ra đường với thầy, chú có cảm giác như mọi người đang nhìn mình, xầm xì, chỉ trỏ, bàn tán về "người quét chợ". Từ đó, chú hết muốn ra khỏi chùa. Và đôi lúc, chú muốn cải đổi cái tên Thanh Thị mà chú mang. Chú thấy cái tên đó chỉ nhắc nhở chú về thân phận buồn tủi của chú mà thôi.

    Vì thương chú, và vì chưa biết cách nào giải tỏa mặc cảm của chú một cách hữu hiệu, thầy cũng chiều lòng chú, không sai chú ra ngoài nhiều và cũng tránh cho chú những dịp phải ra trước đám đông. Trải qua bốn năm, với tuổi đời thêm lớn, với sự học hỏi giáo lý, với sự tu tập thiền định, và với sự tiếp thọ đại giới để trở thành một vị tỳ kheo, chú dần dần thấy vơi đi những tình cảm lưu luyến xót xa cho chuyện tình thương tâm của cha mẹ. Nhưng cái mặc cảm sợ người khác biết rõ thân phận mình vẫn cứ đeo bám mãi trong lòng chú, không sao gột bỏ. 

   Thầy biết vậy, cố gắng tháo gỡ cái mặc cảm đó cho chú lần nữa bằng một cuộc nói chuyện sau thời tụng kinh khuya: "Thanh Thị, con đã trở thành một vị đại đức, một vị lãnh đạo tinh thần xứng đáng cho đồ chúng noi gương tu tập. Vậy mà thầy thấy con như vẫn còn ôm ấp cái mặc cảm rằng mình thấp hèn, phải vậy khôngCon nói đi, cái gì khiến con nghĩ như thếCon có biết rằng chỉ một cái phiền não nhỏ nhặt còn sót lại trong tâm cũng đủ ngăn trở con tiến đến giải thoát hay không?". 

   Thanh Thị không nói không rằng, lặng lẽ bỏ vào phòng. Thầy đến gõ cửa, đứng ngoài cửa nói vọng vào: "Hãy nhìn kỹ những gì thầy làm. Nếu việc thầy làm khiến con thấy thầy không xứng đáng là thầy con nữa thì con hãy rời thầy mà đi tìm một minh sư khác để tham vấn. Con không thay đổi thì suốt một đời ở bên thầy cũng chỉ vô ích mà thôi. Làm sao thấy được vòm trời giải thoát chứ!" Nói rồi thầy bỏ đi .

    Thanh Thị thấy không khí im quá, biết là thầy không còn đứng ngoài cửa phòng mình. Thanh Thị thắc mắc không hiểu thầy đi đâu và làm gì. Chú bước ra, tìm thầy. Thầy không có trong chùa. Thầy đã đi ra ngoài. Chú bước ra cổng chùa nhìn hai bên thì thấy thầy đang cầm chổi quét ở xa xa. Thầy quét về hướng chợ. Chú bặm môi, rồi cắn răng chạy vào phòng mình, ôm mặt khóc như một đứa trẻ. Thầy đã quét chợ như cha chú đã làm trước đây. Thầy muốn chứng minh cho chú thấy rằng việc quét chợ không có gì xấu mà còn là một hạnh nguyện cao cả chỉ có cha chú mới làm nổi. Nhưng, sự cố gắng của thầy không mang lại kết quả gì. Chú vẫn không sao chấp nhận được hành vi quét chợ cho dù thầy có khoác lên đó bao nhiêu ý nghĩa cao đẹp.

    Khi thầy quét chợ về, cất chổi dưới bếp, chú đón lạy thầy ngay ở thềm bếp, năn nỉ: "Lạy thầy, xin thầy đừng vì con mà phải nhọc đến thân tâm như thế. Xin thầy đừng làm vậy nữa, con không chịu nổi". Thầy không nói. Ngày mai thầy lại tiếp tục quét chợ. Chú lại lạy lục xin thầy chấm dứt. Thầy kiên quyết:

    "Ta chỉ ngưng khi nào con thực sự đốt cháy được cái mặc cảm và ý nghĩ cho rằng quét chợ là việc xấu. Con không thay đổi, con sẽ không giải thoát, sẽ không tìm thấy an lạc cho dù con đang khoác mặc tăng bào. Và nếu con không thay đổi, ta sẽ quét chợ cho đến khi nào ta nhắm mắt mới thôi".    
   Thầy tiếp tục quét. Thanh Thị vẫn không thay đổi mà còn đau khổ hơn. Đến nỗi, chú bỏ thầy mà đi, chỉ ghi lại vài dòng vắn tắt rằng chú muốn đi tham học ở phương xa.

    Chú đi xa thật xa khỏi nơi chốn sinh ra và trưởng thành của mình để xóa đi bao hình ảnh, bao ý nghĩ đau buồn về thân phận mình. Chú tìm tới nhiều vị thầy để học hỏi, nhưng không vị thầy nào đả thông được những mặc cảm của chú . Một hôm, nghe đến danh tiếng của một vị thiền sư tên là Đại Ngốc, chú tức tốc tìm đến vị này để học đạo vì chú hy vọng rằng ông ta cũng mang một cái tên không được tao nhã như chính chú, có thể ông ta sẽ có thuốc hay để chữa cho căn bệnh mặc cảm của chú. Chú nghĩ có lẽ đằng sau cái tên của vị Thiền sư này cũng mang một quá khứ nếu không đau xót như chú thì cũng cay chua buồn cười chứ chẳng không.

   Thiền sư Đại Ngốc ẩn cư trong một am tranh trên núi cao. Khi lên tới nơi, chú thấy một cái bảng nhỏ treo trên một thân cây: "Đại Ngốc Am". Chú bước vào đảnh lễ thiền sư, hỏi ngay:

    "Bạch thầy, làm sao có thể gột bỏ được một danh từ chỉ đem lại cho mình những buồn phiền, khổ đau?" 
    "Nó chỉ là một tên gọi giả tạo thì cần gì phải gột bỏ!"
    "Nhưng... rõ ràng là nó đeo bám và gợi lên bao điều đau xót cho con từ nhiều năm nay".
    "Đeo bám chỗ nàoGợi lên cái gìỞ đâuNói ta nghe!"... Thanh Thị hốt nhiên giác ngộ lẽ sinh diệt huyễn hóa của muôn sự , muôn vật, liền sụp lạy thiền sư mà về. Chú đi ngày đêm không dừng nghỉ, những mong về quỳ dưới chân thầy mà sám hối.

*

    Từ hai năm rồi, khi Thanh Thị bỏ chùa mà đi, thầy cứ mang chổi ra quét sân chùa rồi quét luôn tới chợ. Ban đầu thầy quét chỉ để thức tỉnh Thanh Thị, nhưng khi quét, thầy cảm nhận được nhiều ý nghĩa cũng như công dụng tu tập ngay trong chính sự việc quét chợ đó. Thầy tập trung tâm mình vào từng động tác quét, lắng nghe tiếng chổi khua nhẹ trên đất, nhìn ngọn chổi vờn trên cỏ rác... không phút giây nào mà không lắng lòng vào việc quét. Đến độ, thầy với cây chổi chỉ là một. Vì vậy, âm thanh náo loạn của chợ búa không ảnh hưởng, không tổn hại gì đến tự tâm thanh tịnh của thầy. Chính trong loạn động thầy tìm thấy sự tịch lặng. Và thầy có thể an lạc trong chính việc quét chợ tầm thường hàng ngày. Trong khi đó, hình bóng của thầy, việc quét dọn của thầy giữa chợ đời cũng làm cho khu chợ sạch sẽ hơn, bớt huyên náo xô bồ, và người ta cũng bớt cạnh tranh cãi vả nhau. Mỗi lúc thấy thầy quét đến chợ, người ta bỗng dưng giảm chuyện nói năng, có nói thì nói nhỏ giọng xuống. Đức độ của thầy làm thay đổi không khí chợ một cách rõ rệt.

    Hôm nay thầy đang quét đến giữa chợ, bỗng có người nắm lấy cây chổi của thầy, nói với giọng cung kính: "Bạch thầy, thầy hãy về nghỉ ngơi để con quét thay thầy". Thầy ngưng tay ngước nhìn và thấy Thanh Thị. Khuôn mặt của chú ấy không còn dấu vết của mặc cảm, khổ đau và phiền não. Thầy mỉm cười trao chổi cho chú quét, và thầy bước theo chú, từng bước chậm. Từ đó, cứ mỗi sáng, người ta thấy hai thầy trò tu sĩ cùng quét đường, quét chợ. Bóng dáng họ xuất hiện nơi đâu, sự an lạc lan tỏa ra đến đó.

    Hai năm sau, thầy viên tịch. Trước khi từ giã cuộc đời, thầy gọi Thanh Thị đến bên thiền sàng, trao cho Thanh Thị cây chổi mà thầy thường dùng để quét chợ hàng ngày: "Đời thầy mấy mươi năm học đạo không ngờ đến tuổi xế chiều mới tìm thấy được đạo lớn từ cây chổi tầm thường này. Đây là tất cả công phu và ý chỉ của thầy. Con hãy giữ lấy mà đi cho trọn con đường của con". Nói rồi thầy hóa. Thanh Thị cất cây chổi đó trong phòng riêng của mình như một kỷ vật ghi lại hình ảnh cao đẹp của cha, của mẹ, và nhất là của thầy mình.

    Sáng hôm sau, Thanh Thị vẫn cứ quét chợ. Người ở chợ thấy Thanh Thị quét một mình thì biết rằng thầy Hải Chấn đức độ khả kính của họ đã mất.

    Thanh Thị quét chợ cho đến tuổi già. Mấy mươi năm không hề xao lãng. Bây giờ Thanh Thị đã trở thành một vị hòa thượng đạo đức thanh cao, nổi tiếng với cây chổi và hạnh nguyện quét chợ. Hải Thanh quét chợ sáu năm. Hải Chấn quét chợ bốn năm. Riêng Thanh Thị thì quét chợ đến sáu mươi năm. Bao khuôn mặt mới có cũ có, thay nhau ngồi bán hoặc đi mua sắm ở khu chợ, không ai mà không biết đến Thanh Thị quét chợ. Hình ảnh Thanh Thị đã trở nên quen thuộc và gắn liền với khu chợ khiến cho mọi người nẩy ý lấy tên vị hòa thượng này để đặt cho khu chợ: chợ Thanh Thị - một cái chợ sạch. 


   Ngày Thanh Thị ngưng quét thì tuổi đã tám mươi tư. Ngày ấy, bầu trời u ám. Ngoài khu chợ, cỏ rác đầy mà chẳng thấy tăm dạng Thanh Thị đâu. Chợt nghe chuông chùa vẳng lại ba hồi buồn bã. Mọi người ở khu chợ bỗng sa lệ vì biết rằng vị hòa thượng già mang tên Thanh Thị sẽ không bao giờ cầm chổi ra quét chợ này nữa. Cả người bán lẫn khách mua đều sụt sùi khóc.

Vĩnh Hảo

22 tháng 12, 2014

Đê biển ở Hòa Lan

   Hòa Lan , một đất nước nằm thấp hơn mặt nước biển , luôn đối mặt với sự xâm thực của nước mặn cúng như sự tàn phá của các cơn sóng ...
   Vậy họ đã làm thế nào để chống lại cái sức mạnh thiên nhiên đó ...
   Mời các anh chị và các bạn cùng theo dõi ...


21 tháng 12, 2014

Ngộ Đạo Đất Trời



.Sau Khi Tôi Nhắm Mắt.

Khi tôi chết, viếng tang đừng buồn bã
Cười cho to, kể chuyện tếu vui đùa ,
Trong sáu tấm biết chắc tôi hả dạ,
Lên tinh thần, ấm áp buổi tiễn đưa,

Nếu làm biếng, cứ nằm nhà thoải mái
Viếng thăm chi, vài phút có thêm gì ?
Mắt đã nhắm. Lạnh thân. Da bầm tái .
Dẫu bôi son, trát phấn cũng thâm chì .

Tôi đi trước, hẹn gặp nhau ở đó,
Ai thay da mãi mãi sống trăm đời .
Kẻ trước người sau, xếp hàng xuống mộ
Biết đâu là khởi điểm cuộc rong chơi .

Nếu có khóc, khóc cho người còn lại,
Bỏi từ nay thiếu vắng nổi đầy vơi .
Cũng mất mát, dáng hình , lời thân ái
Tựa nương nhau, hụt hẫng giữa đất trời .

Đừng đăng báo, phân ưu lời cáo phó
Chuyện thường tình, phí giấy có ích chi ?
Gởi mua gạo, giúp người nghèo đói khó
Dịu đau buồn những kiếp sống hàn vi,

Trổi nhạc vui cho người người ý thức,
Cuộc nhân sinh sống chết cũng tương đồng,
Khi nằm xuống, xuôi tay và nhắm mắt
Thì đau buồn hạnh phúc cũng hư không .

Đừng xây mộ, khắc bia ghi tên tuổi
Vài trăm năm hoang vắng, chẳng ai hoài .
Vũ trụ vô cùng, thời gian tiếp nối,
Tỷ tỷ người đã chết tự sơ khai

Khi tôi chết đừng ma chay đình đám,
Hỏa thiêu tàn, tro xác gởi về quê
Dẫu bốn biển, cũng là nhà, bầu bạn
Trong tôi còn tha thiết chút tình mê

Thì cũng C, H, O, N kết lại
Nắm tro xương hài cốt khác nhau gì
Nhưng đất mẹ chan hòa niềm thân ái
Cho tôi về, dù cát bụi vô tri.
. ...

                                                                                                          Tràm Cà Mau

18 tháng 12, 2014

Lộn ngôn , Loạn ngôn , Lộng ngôn hay " Ranh " ngôn ?

Là người Việt , dù ở đâu hay mang quốc tịch nào đi nữa , chúng ta cũng có ít nhiều một cái gì đó ở quê hương , tôi cũng không ngoại lệ . Nhờ vậy gần đây thu thập được 1 số chuyện bi hài ở cái mảnh đất mà chúng ta gọi là Quê Hương , xin đăng lên đây để cùng ...  "... khóc cười theo mệnh nước nổi trôi ...[ Phạm Duy ] " .


Anh 3 Ếch :

Nhà Nước độc quyền xuất khẩu vàng .

Việt Nam theo đuổi giải pháp hòa bình cho các tranh chấp và không liên minh với một nước để chống lại nước khác.

Anh Lú :

“Hiến pháp là văn kiện chính trị pháp lý quan trọng vào bậc nhất sau Cương lĩnh của Đảng”.


“Đến hết thế kỷ này không biết đã có Chủ nghĩa Xã hội hoàn thiện ở Việt Nam hay chưa….”

“Đến Đường Tăng đi lấy kinh cũng phải hối lộ. Bước chân sang nước phật đã phải hối lộ…Cho nên chúng ta phải xem xét, bĩnh tĩnh, tỉnh táo, sáng suốt… ”

Anh Tư Sâu :

 “Đường cao tốc một tỉ mấy [USD] này mới khánh thành bị nứt là một sự việc có thật. Thế nào cũng có tiêu cực trong này thôi”.

Anh Hói :

“QH tức là dân, dân quyết sai thì dân chịu, chứ kỷ luật ai?”,


Chú Lùn Bình Dương :

" Mình vừa động viên ông Obama... mình vừa muốn phân hóa cái nội bộ của ổng.
... Cái vai trò, cái vị thế của mình bây giờ... cũng... ngang hàng với người ta,... cũng... nói năng, ...cũng... đúng mức, đàng hoàng ."



".... Chúng ta từ một nước trong chiến tranh ,chưa có những cái kinh nghiệm trong quản lý , và ở nước người ta đó thì muốn tiêu cực , muốn tham nhũng cũng khó , vì hệ thống luật pháp nó chặt chẽ . Còn ở Việt nam của mình , thì có khi không muốn tham cũng động lòng tham , cái người thủ quĩ cứ giữ tiền khư khư , ở quĩ lúc nào cũng có số dư , cho nên lúc bí quá thì em mượn một chút , mượn không thấy ai đòi hết , thì em mượn thêm . Chứ không phải người Việt nam tham những nhứt thế giới , không phải vậy! " 


“ ... Có người ví von Việt Nam, Cuba như là trời đất sinh ra, một anh ở phía đông, một anh ở phía tây. Chúng ta thay nhau canh giữ hoà bình cho thế giới. Cuba thức thì Việt Nam ngủ, Việt Nam gác thì Cuba nghỉ...”

“Công lao là như thế, tài năng là như thế, nhưng mà không màng chức vụ, danh lợi, không đòi hỏi ai cám ơn cả, không đòi hỏi phong chức phong tước gì cả, đánh giặc xong là thanh thản về trời để sống một cuộc đời vui thú điền viên, một cuộc đời thanh thản…”

Đại  ... Caca :

" Tôi bảo, không có cuộc diễn tập nào thành công bằng cuộc diễn tập lần này. Một là, anh em cơ động dùng thuyền để tiếp cận là chưa có bao giờ trong giáo án, đã phải dùng thuyền nan để chèo vào, bí mật áp sát mục tiêu đấy. Đánh mũi trực diện nghi binh ra làm sao. Rồi là tác chiến vòng ngoài, vòng trong thế nào. Tôi nghĩ là rất hay, có thể viết thành sách ."

Chị Phó :

"Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, biết kế thừa những tinh hoa dân chủ của các Nhà nước pháp quyền trong lịch sử và đã, đang phát triển lên tầm cao mới, khác hẳn về bản chất và cao hơn gấp vạn lần so với dân chủ tư sản, nhưng chưa tuyên truyền, giáo dục cho người dân hiểu đúng về dân chủ đi liền với kỷ cương nên một số người đã cố tình lợi dụng dân chủ để gây rối, chia rẽ làm tác động xấu đến trật tự, an toàn xã hội."

Phạm " Múa " Luận : BT Bộ .... dục .

 PV hỏi :* Nhưng trong kỳ thi ĐH, CĐ vừa qua có hàng ngàn điểm 0 môn sử, ông cảm thấy thế nào về kết quả quá buồn này?


  BT trả lời - Tôi thấy bình thường. Đã là cuộc thi tuyển thì chuyện đề thi có sự phân loại thí sinh để tuyển chọn là bình thường.

Nguyễn thị Kim .... Ruồi  : BT Bộ ... tế .

 Lỗi của vắc xin thì xử vắc xin .

Thiếu giường bệnh thì ... phải hỏi Nhà nước .

Tôi đâu có cho phép nhận phong bì sau điều trị .

Tăng viện phí là… thành tựu y tế .

 “Một khi có bệnh, đi khám chữa bệnh thì vẫn có thể khỏi bệnh, có thể biến chứng, tai biến và có thể tử vong. Còn khám chữa bệnh là còn sai sót. Tai biến y khoa là điều không thể tránh trong y học, có những điều y học bất lực.”

PGS. Trần  " Đèn Xanh "   :

    "Hiện nay các đồng chí đang công tác chưa có sổ hưu nhưng trong một tương lai gần hoặc một tương lai xa chúng ta cũng sẽ có sổ hưu và mong muốn mỗi người chúng ta sau này cũng sẽ được hưởng sổ hưu trọn vẹn. Và tôi đi giảng bài cho tất cả các đối tượng, bảo vệ tổ quốc Việt Nam thời XHCN hiện nay có rất nhiều nội dung, trong đó có một nội dung rất cụ thể, rất thiết thực với chúng ta đó là bảo vệ sổ hưu cho những người đang hưởng chế độ hưu và bảo vệ sổ hưu cho những người tương lai sẽ hưởng sổ hưu, ví dụ các đồng chí ngồi tại đây. Cho nên ta phải nói rõ luôn, hiện nay chúng ta phải làm mọi cách để bảo vệ bằng được Tổ quốc Việt Nam thời XHCN." 

Vũ Huy Hoàng phát biểu: BT bộ Cong ... 

“Quy hoạch thủy điện mang tính đặc thù…Đây là của cả nước chứ không riêng của Chính phủ, hay của Bộ Công thương. Chúng ta đang nói về chúng ta, chứ không nói về chính phủ về bộ ngành này, bộ ngành khác.”

Ông Trần " có " Vĩnh : Trưởng phòng .... dục & Đào... quận Bình Tân, TP.HCM khi đề cập đến vụ việc một cô giáo của trường mầm non Nụ Cười (42F, đường số 32, khu dân cư Bình Trị Đông B, quận Bình Tân) bị phụ huynh tố cáo cho trẻ uống thuốc ngủ đã trả lời phóng viên báo Dân Trí: 
Việc cho học sinh uống thuốc chỉ có một cô làm thôi, làm gì phải xỉa xói người ta, không nên nặng nề quá không hay. Bỏ thuốc cho học sinh ngủ, trường mầm non có hoài, không có vấn đề gì lớn”.

Đinh La Lên , BT Bộ Giao ....

" ... Khách giờ đi ô tô trên đường cao tốc này có thể vừa nghe nhạc hay làm thơ. Có nhạc sĩ sáng tác bài hát về đường cao tốc gửi đến chúng tôi”

 Trang Quang " Lũy," Giám xúi  Sở NN-PTNT

 "Theo Luật Bảo vệ và Phát triển rừng và các quy định liên quan, công tác quản lý bảo vệ rừng là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và toàn dân!..."

17 tháng 12, 2014

Mật Mã Tây Tạng Quyển 1



Một quyển tiểu thuyết phiêu lưu mạo hiểm được tác giả lồng vào khung cảnh lịch sử cũng như khảo cổ học đã thu hút hàng triệu độc giả trên toàn thế giới , tôi cũng là 1 trong những người đó , nay up lên đây để các bạn cùng thưởng thức . Xin nói trước vì blog free , nên có giới hạn về dung lượng để chứa files , do đó TNL  sẽ xóa bớt những bài đã đăng trước , để tránh trường hợp bị quá dung lượng . Mong các bạn thông cảm .




















Nguồn : hotmit.com

16 tháng 12, 2014

Nguồn Gốc Dân Tộc Việt

Nhân đọc “Eden in the East”:
Đặt lại vấn đề nguồn gốc dân tộc
và văn minh Việt Nam
Nguyễn Văn Tuấn
www.giaodiem.net
Bản đồ Đông Nam Á vào thời đại Băng Hà
 
Hỏi một người Việt bình thường về nguồn gốc dân tộc Việt Nam, câu trả lời mà người ta thường nghe là tổ tiên của chúng ta xuất phát từ Trung Quốc.  Ngay cả người có kiến thức rộng, có quan tâm đến dân tộc và văn hóa Việt cũng có những ý kiến tương tự.  Đào Duy Anh, trong Việt Nam Văn hóa Sử cương;  và Trần Trọng Kim, trong Việt Nam sử lược, cũng từng cho rằng người Việt có nguồn gốc hoặc từ Trung Quốc [1] hay từ Tây Tạng [2], dù họ có chút dè dặt và thận trọng trong phát biểu.  Gần đây, một người làm chính trị nhưng có quan tâm đến văn hóa Việt Nam, Nguyễn Gia Kiểng, trong Tổ quốc ăn năn, cũng cho rằng nước Văn Lang xưa kia là do người Trung Quốc sáng lập [3] ra. 
Có lẽ cái quan điểm dân tộc Việt có nguồn gốc từ Trung Quốc đã ăn sâu vào tâm trí của chúng ta, nên văn minh Việt Nam cũng được nghiễm nhiên suy luận là bắt nguồn từ văn minh Trung Quốc.  Quan điểm này phù hợp với sách vở của Trung Quốc.  Chẳng hạn như trong Hậu Hán thư , các sử gia của Trung Quốc, với một giọng văn cực kỳ trịch thượng và kỳ thị chủng tộc, viết rằng tổ tiên ta ngày xưa giống như loài “cầm thú”, xã hội thì chẳng có tôn ti trật tự gì cả, phải đợi đến khi hai quan thái thú của họ là Tích Quang và Khâm Diên dạy cho tổ tiên ta cách ăn mặc và cách trồng lúa.  Sau đó các nhà sử học này thản nhiên kết luận: “Miền Lĩnh Nam theo phong hóa Trung Quốc là bắt đầu từ hai thái thú ấy” [4].
Điều thú vị [hay đáng trách] là nhận xét này đã được giới có học của Việt Nam tiếp nhận và lấy làm một thứ kinh điển, một câu văn giáo khoa, mà không có một chất vấn tính trung thực, hay thách thức tính khoa học của nó [5].  Tính dễ dãi chấp nhận sử liệu ngoại bang của giới có học ngừơi Việt đã vô tình gieo vào lòng nhiều người Việt một tâm lý tự ti, đánh giá thấp nền văn hóa Việt Nam khi so sánh với các nền văn hóa khác, như của Trung Hoa chẳng hạn.  Đại diện cho sự đánh giá thấp này thì có nhiều, nhưng một câu phát biểu trong Tổ quốc ăn năn của Nguyễn Gia Kiểng tưởng tóm lược khá đầy đủ: "[…] chúng ta có lẽ là nền văn minh phù sa muộn nhất. […] dấu ấn của nền văn minh phù sa: cần cù, nhẫn nại, nhưng thủ cựu, thiếu sáng kiến và thiếu óc mạo hiểm. […]" [6].   Từ nhận định đó, tác giả của TQĂN cho rằng tổ tiên của chúng ta qua nhiều ngàn năm, tuy sống bên cạnh biển, mà chỉ nhìn biển với cặp mắt sợ hãi, không sáng chế ra ra kỹ thuật hàng hải nào cả.
Thực ra, chẳng riêng gì giới trí thức Việt Nam, ngay cả một phần lớn trong giới sử học Tây phương cũng từng quan niệm, hay nói đúng hơn là giả định, rằng các nền văn minh Đông Nam Á (kể cả của Việt Nam) chỉ là những chi nhánh của hai nền văn hóa lớn hơn: Trung Hoa và Ấn Độ.  Giả định này đã được dùng như là một sử liệu, một thuyết đáng tin cậy để dạy học cho học sinh (trong đó có cả học sinh người Việt); và một cách vô tình, nó được lưu truyền hết thế hệ này sang thế hệ khác như là một sự thật!  Bởi vì qua nhiều năm, chẳng ai chất vấn lý thuyết này, nên một cách nghiễm nhiên, nó được xem là một “thuyết chính thống.”
Mãi đến thập niên 60s thuộc thế kỷ 20, một số nhà khảo cổ học rất uy tín (phần lớn là Mỹ), dựa vào nhiều kết quả của một loạt nghiên cứu ở Việt Nam và Thái Lan, đã bắt đầu chất vấn sự chính xác và tính logic của thuyết chính thống trên đây [7].  Có thể nói họ là những “con cừu đen” trong giới tiền sử học, vì đã can đảm thách thức một quan điểm mà đại đa số đồng nghiệp đều mặc nhiên công nhận.  Nhưng họ không phải là những người đơn độc.   Gần đây, đã có một số nhà nghiên cứu từ Việt Nam, Thái Lan, và Nam Dương công bố nhiều dữ kiện khảo cổ học cho thấy rằng thuyết văn hóa Đông Nam Á xuất phát từ văn hóa Trung Hoa và Ấn Độ không còn đứng vững nữa. 
Nhưng trong những nhà nghiên cứu chuyên môn này, chưa ai trình bày dữ kiện một cách có hệ thống và nghiên cứu một cách sâu xa bằng một nhà nghiên cứu “tài tử” là ông Stephen Oppenheimer trong cuốn sách "Eden in the East: The Drowned Continent of Southeast Asia"  (tạm dịch là "Thiên đàng ở phương Đông: Lục địa chìm đắm của Đông Nam Á) [8].  Trong tác phẩm này, qua những dữ kiện dồi dào được thu thập một cách công phu từ nhiều ngành nghiên cứu khác nhau, Oppenheimer trực tiếp thách thức cái thuyết chính thống, và làm thay đổi những quan niệm về thời tiền sử mà chúng ta từng hiểu và từng được dạy.  Đặc biệt, cuốn sách đặt trọng tâm vào việc thẩm định lại các quan điểm về văn minh vào thời tiền sử ở Đông Nam Á, tác giả cho rằng:
  1. Trận đại hồng thủy [9] tương tự như trong Kinh Thánh là có thật và xảy ra vào cuối thời đại Băng hà (Ice Age).
     
  2. Trận đại hồng thủy này xảy ra khoảng 8000 năm về trước làm chìm đắm lục địa Đông Nam Á, và làm cho dân chúng phải di tản đi các vùng đất khác để sống.  Họ chính là những người gầy dựng nên nền văn hóa Tân Đồ Đá (Neolithic cultures) của Trung Quốc, Ấn Độ, Mesopotamia, Ai Cập và vùng đông Địa Trung hải, và do đó, họ là những người cha đẻ và vun đắp các nền văn minh vĩ đại ở phương Tây.
     
  3. Những dân tộc thuộc quần đảo Polynesian không phải xuất phát từ Trung Quốc, nhưng có nguồn gốc từ Đông Nam Á.
     
  4. Người Trung Quốc không phải là người sáng chế ra kỹ thuật trồng lúa.  Khoảng 9,000 đến 10,000 năm về trước, một số dân thuộc vùng Đông Nam Á đã là những nhà canh nông chuyên nghiệp đầu tiên của nhân loại (chứ không chỉ sống bằng nghề săn bắn), họ đã phát triển kỹ thuật trồng khoai và qua đó làm một cuộc cách mạng nông nghiệp.
Nói một cách khác cho rõ ràng hơn, qua công trình nghiên cứu này, Oppenheimer đề xuất một thuyết cho rằng Đông Nam Á là cái nôi của văn minh nhân loại ngày nay.  Thuyết này thể hiện một thách thức rất lớn đến các tri thức về thời tiền sử đã và đang được lưu truyền trong giới khoa bảng.  Và do đó, Oppenheimer đã, lần đầu tiên, đặt vùng Đông Nam Á vào vị trí xứng đáng của một vùng đất thường bị lãng quên bên cạnh hai nền văn minh lớn là Trung Hoa và Ấn Độ.
 

Vùng đất giàu lịch sử nhưng bị lãng quên
Đông Nam Á là một trong những vùng đất với nhiều sắc dân và nhiều nền văn minh phong phú nhất và cổ nhất của nhân loại.  Về mặt địa lý, có hai khu vực riêng biệt: một khu thuộc về đất liền và một khu thuộc về hải đảo.  Khu vực đất liền thực ra gồm hai bán đảo: khu rộng lớn bao gồm Miến Điện (ngày nay gọi là Myanmar) thuộc hướng Đông Bắc, Thái Lan ở giữa, và Lào, Cam-bốt, và Việt Nam thuộc hướng Đông và Đông Nam; và khu nhỏ hơn bao gồm bán đảo Mã Lai, chạy dài từ Thái Lan xuống tận Miến Điện.
Miến Điện có nhiều chùa chiền được kiến trúc một cách phi thường, nhiều lâu đài được chạm khắc rất tinh vi.  Ở miền Bắc Thái Lan cũng còn lưu lại nhiều công trình kiến trúc vĩ đại mang đậm ảnh hưởng của Phật giáo.  Vịnh Hạ Long thuộc phía bắc Việt Nam trồi lên những tác phẩm thiên nhiên như được chạm bằng đá vôi, mà có lẽ từng là một vùng lục địa khoảng mười ngàn năm trước đây.   Cổ Loa, một huyện nhỏ của Việt Nam ngày nay, có lẽ là một trung tâm đô thị (hay một thành phố) đầu tiên của vùng Đông Nam Á, với niên biểu được ước đoán vào khoảng niên kỷ thứ ba trước Dương lịch.  Những công trình kiến trúc ở Huế và Đà Nẵng cho thấy sự tương phản giữa hai nền văn hóa Trung Hoa và Ấn Độ.  Thành phố Huế, tuy lâu đời hơn, nhưng có nhiều công trình kiến trúc trẻ hơn, thành phố Đà Nẵng, nơi mà nhiều tháp Chàm còn lưu lại như những dấn ấn của văn minh Ấn Độ.  Cam-bốt có đền Angkor Wat nối tiếng, và nhiều dấu vết của một nền văn minh sáng chói trước đây.  Ai là người đã xây dựng những công trình này?  Trong Thiên Đàng ở Phương Đông, Oppenheimer chứng minh rằng chính những người dân địa phương đã xây dựng những công trình đồ sộ này.  Ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa và Ấn Độ chỉ qua thương mại, chứ không phải qua xâm lăng.
Với một lịch sử lâu đời và nhiều nền văn minh phong phú như thế, song Đông Nam Á lại không được các nhà sử học để ý đến như các vùng đất khác.  Đây là một ví dụ về thành kiến của giới sử học Tây phương.  Khoảng 200 năm trước đây, các nhà sử học khám phá rằng phần lớn hai họ ngôn ngữ Ấn và Âu (Indian và European) thuộc vào một họ ngôn ngữ mà ngày nay chúng ta gọi là nhóm Ấn-Âu (Indo-European language group).  Khám phá này được đánh giá như là một thành quả vĩ đại của tri thức vào thời gian đó.  Nhưng mỉa mai thay, trước đó vài năm, người ta đã phát hiện ra một nhóm ngôn ngữ khác, có tên là Austronesian, nhưng không đem lại một sự chú ý nào đáng kể trong giới khoa bảng Tây phương cả.  Nhóm ngôn ngữ này hiện diện rất rộng, từ các vùng như Madagascar, Đài Loan ngày nay, Hawaii, và Tân Tây Lan, vượt Thái Bình Dương, đến tận Ấn Độ dương khá lâu, có thể trước khi Phật Thích Ca ra đời.
Sách viết về nguồn gốc văn minh thế giới hoàn toàn không đề cập đến Đông Nam Á.  Ngay cả khi đề cập đến khu vực này trong vài năm gần đây, các sách cũng chỉ viết một cách sơ sài vài hàng, với giọng văn thiếu nghiêm túc, nhưng lại tập trung vào hai nền văn minh Trung Hoa và Ấn Độ, nhất là vào thời 2000 năm trước đây.  Mãi đến thời gian gần đây, văn minh của Thời đại Đồng thiết Đông Sơn (Bronze Age), và các nền văn hóa trước đó (vào niên kỷ thứ nhất trước Dương lịch) của Việt Nam mới được công nhận như là văn minh nguyên thủy của khu vực Đông Nam Á.  Tuy nhiên, số lượng nhà khảo cổ học trực tiếp gắn bó và chuyên môn nghiên cứu về các nền văn minh này vẫn còn rất ít, nếu không muốn nói là chỉ “đếm đầu ngón tay”.  Trong khi đó, các trung tâm nghiên cứu thuộc các nước trong vùng như Việt Nam, Thái Lan, Nam Dương, v.v. thì lại bị hạn chế về chuyên môn, lẫn thiết bị và tài chính để làm có thể tiến hành những nghiên cứu loại tiền phong.
 

Khoảng trống lịch sử
Có lẽ vì những lí do kể trên, ngành khảo cổ học, tuy với một bề ngoài mang vẻ chính xác cao, nhưng thực tế thì có khá nhiều khoảng trống.  Khoảng trống lịch sử đáng chú ý nhất là quá trình tiến hóa sau thời kỳ nước biển bị dâng cao, và đặc biệt là vào thời kỳ Đồ Đá Mới, khoảng 8000 năm trước đây, nhất là sự lãng quên cho nền văn minh Đông Nam Á, vì thiếu dữ kiện.  Thực vậy, ngoài Việt Nam và Thái Lan là hai nước có nghiên cứu khảo cổ tương đối trưởng thành và có khá nhiều dữ liệu gần đây, ở các nơi khác trong vùng, giới khảo cổ học chỉ mới bới đào phần trên mặt của thời đại Đá mới và Đồng thiết (Neolithic và Bronze Age).  Cộng thêm vào đó là sự thiếu thốn các văn bản trong thời tiền sử thuộc vùng đất này cũng làm cho việc nghiên cứu thêm nhiều khó khăn. Nhưng dù sao đi nữa, so với các vùng khác trên thế giới, Đông Nam Á vẫn là một địa phương có nhiều thiếu sót về dữ kiện trong thời tiền sử. 
Trong "Thiên đàng ở phương Đông," Stephen Oppenheimer đặt một câu hỏi mà ai cũng phải suy nghĩ: người dân vùng duyên hải Đông Nam Á làm gì khi mực nước biển [10] dâng cao làm ngập xứ sở họ vào thời gần Thuộc kỷ pleitoxen?  Câu trả lời của Oppenheimer dựa vào ba lý lẽ quan trọng:
  1. Thứ nhất, vào thời cao điểm của Thời đại Băng hà (khoảng 20000 đến 18000 năm trước đây), Đông Nam Á là một lục địa rộng gấp hai lần Ấn Độ ngày nay, và bao gồm cả phần đất mà người Tây phương thường gọi là bán đảo Đông Dương, Mã Lai Á và Nam Dương.  Vào thời đó, Biển Nam (South China sea), Vịnh Thái Lan và Biển Java là một vùng đất khô nối liền các khu vực của lục địa.  Theo địa chất học, bán phần của vùng đất bị ngập chìm này được gọi là Thềm lục địa Sunda (tiếng Anh là Sundaland).  Vùng đồng bằng của thềm lục địa này bị chìm đắm rộng lớn bằng Ấn Độ ngày nay.  Sau Thời đại Băng hà, cuối cùng chỉ còn một số núi rải rác chung quanh quần đảo Mã Lai.  Vùng biển nối giữa Hàn Quốc, Nhật Bản, và Đài Loan mà ngày nay ta gọi là Biển Đông (East China sea) từng là vùng đất liền.  Một bằng chứng rất thuyết phục mới nhất (ba năm trước đây) là những công trình xây cất, tòa nhà được kiến trúc rất độc đáo vừa được khám phá dưới lòng biển thuộc Đài Loan.
     
  2. Thứ hai, Oppenheimer chứng minh rằng khoảng 9,000 đến 10,000 năm về trước, một số dân vùng Đông Nam Á đã là trở thành những nhà canh nông chuyên nghiệp, không chỉ là những người sống bằng nghề săn bắn ban sơ như giới khảo cổ học Tây phương mô tả.  Ông trình bày dữ kiện liên quan đến trồng trọt khoai lang (khoai mỡ, yam) và khoai nước (taro) được tìm thấy ở Nam Dương, mà tuổi cỡ 15,000 đến 10,000 trước Dương lịch; kỹ thuật trồng lúa có sắp sỉ tuổi cũng được tìm thấy ở Mã Lai Á.
     
  3. Thứ ba, dựa vào dữ kiện và các yếu tố địa chất học, Oppenheimer cho rằng vào khoảng 8000 năm trước đây, mực nước biển tăng một cách đột ngột và gây ra một trận đại hồng thủy, và trận lụt vĩ đại này đã làm cho những nhà nông đầu tiên trên thế giới này phải di tản đi các vùng đất khác để mưu sinh.  Tuyến đường di cư là theo hướng nam về Úc Đại Lợi, hướng đông đến Thái Bình Dương, và hướng tây đến ấn Độ Dương, và hướng bắc vào vùng đất liền Á châu.
Trong quá trình di cư đến các vùng đất mới, họ đem theo ngôn ngữ, truyền thuyết, quan niệm tôn giáo, kinh nghiệm thiên văn, yêu thuật, và đẳng cấp xã hội đến vùng đất mới.  Thực vậy, ngày nay, dấu vết của cuộc di dân trên vẫn còn ghi đậm trong các quần đảo Melanesia, Polynesia và Micronesia; dân chúng những nơi này nói tiếng thuộc hệ ngôn ngữ Austronesian có nguồn gốc từ Đông Nam Á.  Có lẽ người ta không ngạc nhiên khi thấy trong các dân tộc vùng Đông Nam Á, Trung Đông, Úc châu, và Mỹ châu đều có những câu truyện thần thoại về trận lụt vĩ đại này, và các câu truyện này có độ tương tự rất cao.  Điều này chứng tỏ  rằng các sắc dân này xuất phát từ một nền văn hóa nguyên thủy.  Theo Oppenheimer, những người tỵ nạn này là những hạt giống cho những nền văn minh lớn khác mà sau này được phát triển ở Ấn Độ, Mesopotamia, Ai Cập, và Địa trung hải.
Ngoài phần nghiên cứu về thần thoại và truyền thuyết, Oppenheimer còn dùng một nguồn tài liệu đáng tin cậy nhất và mang tính khoa học và chính xác hơn là di truyền học.  Các dữ kiện di truyền học chứng minh rằng các sắc dân trong quần đảo như Tân Guinea, Polynesia, Melanesia, v.v. có cấu trúc di truyền tố giống với các sắc dân thuộc vùng Đông Nam Á ngày nay.  Gần đây, còn có một số nghiên cứu di truyền học cho thấy người Hán có nguồn gốc từ Đông Nam Á và có thể cả Bắc Á.  
Ông Oppenheimer viết, "Lý thuyết mà tôi trình bày trong cuốn sách này. lần đầu tiên, đặt Đông Nam Á vào trung tâm của các nguồn gốc văn hóa và văn minh.  Tôi cho rằng nhiều người phải di tản khỏi vùng duyên hải của họ ở phương Đông vì lụt lội.  Những người tỵ nạn này từ đó vung đấp những nền văn minh vĩ đại ở phương Tây."
 

Một vùng đất văn minh tiến bộ
Theo Oppenheimer, Atlantis của Đông Nam Á, tạm gọi là "Sundaland", bởi vì vùng này là một thềm lục địa Sunda, nơi từng là trung tâm hàng đầu về cuộc cách mạng thời đại đồ đá mới (Neolithic Revolution), bắt đầu phát triển kỹ thuật trồng trọt, dùng đá để nghiền hạt lúa, vào khoảng 24,000 ngàn năm trước đây, tức là trước cả Ai Cập và Palestine khoảng 10,000 năm. 
Một loạt khám phá khảo cổ gần đây đã đủ để xét lại thuyết cho rằng Trung Quốc và Ấn Độ là hai nước đã khai hóa hay truyền bá văn minh cho các nước thuộc vùng Đông Nam Á.  Thực vậy, khám phá về hạt lúa ở hang Sakai (miền Bắc Thái Lan) gần đây cho thấy cư dân ở đây đã biết trồng lúa rất xưa, có thể trước cả thời kỳ nước biển dâng cao vào khoảng 8000 năm về trước, ít nhất là từ thiên niên kỷ thứ 6 hay thứ 7 trước Dương lịch.  Hệ thống nông nghiệp được tìm thấy ở Nam Dương có niên biểu lâu đời hơn cả thời đại mà những thành tựu được xem là "cách mạng" về trồng lúa ở Trung Quốc.  Thực vậy, ở Nam Dương, kỹ thuật về trồng khoai lang và khoai nước được ước đoán có tuổi từ 15000 đến 10000 năm trước Dương lịch.   Ở Việt Nam, khám phá ở Phùng Nguyên và bằng kỹ thuật định tuổi dùng Carbon-14 cho thấy tổ tiên ta từng trồng trọt ngũ cốc khoảng 5000 đến 6000 năm trước đây, tức là còn sớm hơn nhiều niên biểu của những thành tựu của người Trung Quốc.  Ngoài ra, Nhà khảo cổ học rất uy tín gốc Mỹ, Giáo sư Wilhelm G. Solheim II, trong một loạt nghiên cứu từ 1965 đến 1968, cho thế giới thấy nền văn minh Hòa Bình là nền văn minh nông nghiệp đầu tiên trên thế giới, khoảng 15,000 năm trước dương lịch.  Một Nhà khảo cổ học danh tiếng khác người Úc, Giáo sư Peter Bellwood, đã từng viết rằng quê hương nguyên thủy của cây lúa rất có thể là ở chung quanh vùng Đông Dương - Mã Lai - Miến Điện, vì ở đây khí hậu nhiệt đới là môi trường thuận lợi cho việc canh tác nông nghiệp.  Trong Eden in the East, Oppenheimer cũng có kết luận tương tự: thay vào một mô hình cho rằng Trung Quốc là xứ sở nguyên thủy của kỹ thuật trồng lúa, chúng ta lại có một mô hình khác mà trong đó các dân tộc "man di" nói tiếng Nam Á ở Đông Dương dạy người Trung Quốc các kỹ thuật trồng lúa.
Không những trong lĩnh vực nông nghiệp, mà ngay cả trong lĩnh vực kỹ nghệ chế biến, sản xuất, người Đông Nam Á, mà đặc biệt là người Việt Nam, đã phát triển kỹ thuật làm đồ đồng, đồ thiết và đồ gốm khá cao.  Về các sản phẩm đồ đồng và thiết, người dân ở vào thời Phùng Nguyên đã từng sản xuất vũ khí, và mức độ sản xuất đã tăng vọt trong thời đại Đông Sơn.  Thực vậy, vào thời Phùng Nguyên (tức là lúc thời kỳ khởi đầu của vù Hùng) tỷ lệ vũ khí tìm thấy trong các di vật dưới 1%; nhưng đến thời cuối vua Hùng, tỷ lệ này tăng lên khoảng 50 đến 63%.  Nhiều khí giới khai quật gần đây ở Đông Sơn cho thấy cư dân ở đây là từng sản xuất nhiều vũ khí phức tạp (có chạm trổ tinh vi), có thể đánh xa và gây tổn thương hàng loạt cho đối phương.  Người Trung Quốc vẫn cho rằng họ là người phát minh ra vũ khí dùng trong chiến trường.  Đối chiếu với những khám phá ở Đông Sơn và Phùng Nguyên, xem ra thuyết người Trung Quốc khám phá ra vũ khí đầu tiên không còn vững nữa!
Về đồ gốm, người Việt Nam đã sản xuất nhiều sản phẩm nghệ thuật công phu và thanh tú, và những sản phẩm này không những được bán trong khắp vùng Đông Nam Á, mà còn xuất khẩu qua tận xứ Melanesia.  Thị trường xuất khẩu này đã hình thành trước sự ảnh hưởng của Ấn Độ.  Các dụng cụ bằng đá tìm được ở Úc châu cũng từ Hòa Bình mà ra: tuổi của các đồ đá này được định là 14000 đến 20000 năm trước Dương lịch.  Đồ gốm ở Nhật với tuổi khoảng 10000 năm trước dương lịch cũng xuất phát từ Hòa Bình.  Giáo sư Solheim II nhấn mạnh rằng cả hai nền văn minh nổi tiếng của Trung Hoa là Lung Shan và Yang Sao đều xuất phát từ Hòa Bình.  Như vậy, từ đồ gốm Phùng Nguyên đến trống đồng Đông sơn, tất cả đều chứng minh nền văn minh Việt Nam thời tiền sử đã đạt tới một trình độ cao trên thế giới.  Quan trọng hơn là những phát triển này xảy ra trước thời văn minh Lung Shan và Yang Sao ở Trung Quốc. 
Trước, và đặc biệt là trong, thời kỳ nước biển dần dần dâng cao,  người Sundaland di dân đến những vùng đất láng giềng: Trung Quốc, Ấn Độ, Mesopotamia, và vài hòn đảo từ Madagascar đến Phi Luật Tân, Tân Guinea, và sau này họ chiếm luôn vùng Polynesia cho đến Hawaii và Tân Tây Lan.  Họ là những người thầy ở các vùng đất mới, dạy người địa phương những kỹ thuật trồng trọt và xây dựng.  Người Hòa Bình còn truyền bá văn minh nông nghiệp đến nhiều nơi trên thế giới: Nhật, Đài Loan khoảng 4000 năm trước Dương lịch; Phi Luật Tân, Indonesia khoảng 3000 năm trước Dương lịch; Madagasca và Đông Phi châu khoảng 2000 năm trước Dương lịch.
 

Bắc xuống Nam, hay Nam lên Bắc?
Theo thuyết của Oppenheimer thì người Trung Quốc và Ấn Độ ngày nay có gốc gác từ Đông Nam Á, chứ không phải nguồn gốc của người Đông Nam Á là ở Trung Quốc hay Ấn Độ.  Đây cũng là một đảo vòng xoay 180 độ về nguồn gốc dân tộc Việt Nam.  Mà, xem ra thuyết của Oppenheimer có nhiều "đồng minh."  Một số học giả khác (như Madelaine Colani, J Hornell, P. V. van Stein, Heine Geldern, Bernard Karlgren, N J Krom) cũng cho rằng làn sóng người từ Bắc Việt tràn xuống phía Nam và vào Ấn Độ trước khi vùng này bị giống dân Aryan xâm chiếm.  Giáo sư Solheim II căn cứ trên những dữ kiện khảo cổ thì thấy rằng giống người Hoà Bình tràn lan xuống phía nam, lên hướng bắc, và sang hướng tây.  Tại mỗi nơi, người Hòa Bình phối hợp với dân địa phương để tạo thành các chủng tộc mới của mỗi vùng.
Mới đây thuyết Bắc-tiến còn có căn cứ khoa học vững vàng (dù lúc viết sách, ông Oppenheimer không biết đến), đó là: trong một bài báo khoa học quan trọng được công bố trên Tạp chí của Viện Hàn lâm Quốc gia Khoa học Mỹ (một tạp chí khoa học rất uy tín trên thế giới) , một nhóm nghiên cứu thuộc Trường Đại học Texas (Mỹ) và Viện Nghiên cứu Di truyền học Trung Quốc cho thấy nguồn gốc của người Trung Hoa (và cả người Đông Á) rất có thể là do người từ Đông Nam Á di dân lên [11], chứ không phải ở Bắc di dân xuống Nam!  Như vậy, cho rằng dân tộc Việt là xuất phát phát từ người Trung Quốc có thể là một ngộ nhận.  Phải hiểu ngược lại thì mới đúng!
 

Một vài nhận xét
Eden in the East  là một tác phẩm độc đáo, được soạn thảo rất công phu và khoa học.  Điều đáng chú ý là tác giả là một bác sĩ chuyên khoa về nhi đồng, không phải là một nhà khảo cổ học.  Tuy nhiên, với khả năng và kiến thức khoa học của tác giả, ông đã tiếp nhận tri thức và xử lý thông tin từ nhiều nguồn như di truyền học, nhân chủng học, thần thoại, văn học dân gian, ngôn ngữ học, hải dương học, và khảo cổ học để cho ra đời một cuốn sách làm cho nhiều nhà nghiên cứu Đông Nam Á học và khảo cổ học phải ngẩn ngơ.  Thực vậy, Oppenheimer đã, không những trực tiếp chất vấn, mà còn thách đố, những thuyết mà giới chuyên môn, kể cả các học giả Việt Nam đề ra và chấp nhận như những "chân lý" thời tiền sử.  Kể từ ngày xuất bản cuốn sách cho đến nay (khoảng 3 năm), theo tôi biết, chưa một ai trong giới chuyên môn về Đông Nam Á học chất vấn tính khoa học của thuyết mà Oppenheimer đề xuất.  Thực ra, tất cả những bài điểm sách (khoảng 20 bài) mà tôi đọc qua không có một bài nào chất vấn cách làm việc hay khoa học tính của tác giả; tất cả đều ngợi khen một cách nồng nhiệt.  Có người còn cho rằng đây là một quyển sách quan trọng vào bậc nhất trong ngành Đông Nam Á học! 
Đối với người viết bài này, một điểm yếu của quyển sách là những dữ kiện hay bằng chứng liên quan đến các câu chuyện thần thoại.  Tác giả cố thuyết phục độc giả bằng cách trình bày mối tương quan giữa các nền văn hóa bằng những câu chuyện thần thoại có motif giống nhau, để từ đó chứng minh cho thuyết của ông (tức là văn minh nhân loại xuất phát từ Đông Nam Á).  Tác giả thậm chí còn dùng thống kê học để thẩm định mối tương quan này!  Tuy nhiên, tôi vẫn cảm thấy những dữ kiện như thế có vẻ hời hợt, và thiếu tính thuyết phục cao.  Đành rằng, nhiều nền văn hóa, và đặc biệt là những văn hóa thuộc vùng Á châu - Thái bình dương, có nhiều truyện thần thoại giống nhau, hay ít ra là song song nhau về lụt lội.  Đây không phải là những sự ám chỉ tối tăm đến những sự kiện mang tính Freud trong tiềm thức nhưng là những sử kiện rõ rệt liên đới đến những thảm họa khi mực nước biển dâng cao sau thời đại Băng hà.  Nhưng phương pháp xác định nguồn gốc của những câu chuyện thần thoại này là một vấn đề.
Tuy nhiên, giữ cái điểm yếu đó trong khi đọc sách, tôi vẫn phải công nhận tác giả đã khảo cứu rất cẩn thận, tiếp thu và xử lý tài liệu rất chuyên môn.  Thêm vào đó là lối hành văn trong sáng, và lý luận vững vàng, tác giả đã làm cho chúng ta phải suy nghĩ lại về nguồn gốc tổ tiên và văn minh của nhân loại ngày nay.  Chúng ta cần nhiều tác phẩm loại này hơn nữa trong lĩnh vực khảo cổ học để cho thấy rằng tổ tiên chúng ta không chỉ sáng tạo ra địa cảnh (hay hải cảnh) mà chúng ta đang sống, nhưng địa cảnh và hải cảnh cũng tạo ra chúng ta.
Tóm lại, nhiều khám phá khảo cổ học mới đây, và nhất là cuốn sách Eden in the East, đã nhanh chóng đưa vùng đất bị lãng quên của Đông Nam Á vào một nơi trang trọng của bản đồ thế giới, và là cái nôi của văn minh nhân loại ngày nay.  Và qua những khám phá này, chúng ta đã có dữ kiện để đặt lại vấn đề nguồn gốc dân tộc và văn minh Việt Nam, chất vấn những thuyết mà ta từng được dạy và từng tin như là những chân lý.  Chúng ta có bằng chứng để phát biểu rằng trước khi tiếp xúc với người Hán từ phương bắn (Trung Quốc) đến, tổ tiên chúng ta đã tạo dựng nên một nền văn minh khá cao, nếu không muốn nói là cao nhất trong vùng Đông Nam Á.  Đô thị cổ xưa nhất trong vùng là do tiền nhân của chúng ta xây dựng.  Tổ tiên chúng ta là những nhà kỹ thuật giỏi, đã biết sản xuất vũ khí để đánh giặc, đã đúc được những trống đồng tinh xảo để truyền lại những ý tưởng và triết lý cho hậu duệ, và cũng có thể nói họ cũng là những nghệ sĩ tài ba, ham thích múa hát và thổi kèn.  Tổ tiên chúng ta đã phát triển và ứng dụng kỹ thuật trồng lúa trước người Hán, hay là những người thầy dạy cho người Hán trồng lúa (chứ không phải ngược lại.)  Và có thể tổ tiên chúng ta cũng chính là tổ tiên của người Trung Quốc ngày nay.  Đã đến lúc phải trả lại sự thực và danh dự cho tổ tiên chúng ta.
Nguyễn Văn Tuấn

Chú thích:
  1. Trong Việt Nam Văn hóa Sử cương (Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh tái bản năm 1992), ở trang 24-25, Đào Duy Anh viết: "Nay ta hãy căn cứ vào sự nghiên cứu của các nhà sử học, nhất là các vị giáo sư ở trường Viễn Đông bác cổ, mà xem gốc tích của dân tộc ta như thế nào.  Có người cho rằng tổ tiên ta phát xuất từ Tây Tạng, sau theo lưu vực sông Nhị mà di cư xuống miền trung châu Bắc Việt.  Nhưng theo ông Aurousseau dẫn chứng có điều rất kỹ càng thì tổ tiên ta lại là người nước Việt ở miền hạ lưu sông Dương Tử, sau bị nước Sở (đời Xuân thu) đánh đuổi phải chạy xuống miền nam ở miền Quảng Đông, Quảng Tây, rồi lần lần đến Bắc Việt và phía Bắc Trung Việt.  Theo nhiều nhà nhân chủng học hiện thời thì ở thời thượng cổ, giống người Indonesian bị giống Aryan đuổi ở Ấn Độ mà tràn sang bán đảo Ấn Độ Chi-na, làm tiêu diệt giống người thổ trước đầu tiên ở đây là giống Melanesian rồi một phần trong đám di dân ấy đi thẳng mãi sang Nam Dương quần đảo, còn một phần ở lại Ấn Độ Chi-na, ở phía nam thành người Chiêm Thành và Cao Man sau đồng hóa theo văn hóa Ấn Độ, ở phía bắc thì hỗn hợp với giống Mông Cổ ở Trung Hoa xuống mà thành người Việt Nam."
     
  2. Trong Việt Nam Sử Lược (Trung tâm Học liệu Bộ Giáo dục xuất bản, Sàigòn, 1971), ở trang 5, Trần Trọng Kim viết: "Theo ý kiến những nhà kê cứu của nước Pháp, thì người Việt Nam và người Thái đều ở miền núi Tây Tạng xuống.  Người Việt Nam theo sông Hồng Hà lần xuống phía Đông nam, lập ra nước Việt Nam ta bây giờ; còn người Thái thì họ theo sông Mê-kông xuống, lập ra nước Tiêm la (tức là Thái Lan) và các nước Lào.

    Lại có nhiều người Tàu và người Việt Nam nói rằng nguyên khi xưa đất nước Tàu có giống Tam Miêu ở, sau giống Hán tộc (tức người Tàu bây giờ) ở phía Tây Bắc đến đánh đuổi người Tam Miêu đi, chiếm giữ lấy vùng sông Hoàng Hà lập ra nước Tàu, rồi dần dần xuống phía nam, người Tam Miêu phải lẩn núp vào rừng hay là xuống ở miền Việt Nam ta bây giờ.

    Những ý kiến ấy là theo lý mà suy ra đó thôi, chứ cũng chưa có cái gì làm chứng cho đích xác.  Chỉ biết rằng người Việt Nam ta trước có hai ngón chân cái giao lại với nhau, cho nên Tàu mới gọi ta là Giao Chỉ; mà xem các loài khác, không có loài nào như vậy, thì tất ta là một loài riêng, chứ không phải là loài Tam Miêu."

     
  3. Trong Tổ quốc ăn năn (Paris, 2001), ở trang 122, Nguyễn Gia Kiểng viết: " … cuộc Nam tiến của người Trung Hoa đến Quảng Đông, Quảng Tây thì khựng lại vì gặp bức tường núi gần 100 cây số.  Chỉ có một số ít người vượt được núi, hợp với thổ dân mà tạo ra nước Văn Lang."
     
  4. Sách Hậu Hán thư (tức sử của Trung Quốc) chép: "Phàm đất thuộc bộ Giao Chỉ, tuy đã đặt quận, huyện, nhập vào lãnh thổ Trung Quốc, nhưng ngôn ngữ vẫn khác nhau, phải có thông ngôn mới hiểu.  Người như cầm thú, không phân biệt trưởng ấu (tức không có tôn ti trật tự), búi tóc ở gáy, đi chân không, lấy vải quấn qua đầu làm áo.  Sau đó những người tội phạm Trung Quốc đến ở lẫn với họ, mới biết ngôn ngữ dần dần thấy hóa theo lễ.  Đến thời Quang Vũ Trung Hung, Tích Quang làm thái thú Giao Chỉ, Nhâm Diên làm thái thú Cử Chân, bấy giờ mới dạy cho dân biết cày cấy, biết đội mũ đi giày, đặt mối lái, dân mới biết hôn nhân, dựng học hiệu dạy lễ nghĩa …"
     
  5. Trong một cuốn băng video ca nhạc mang tựa đề "Cây đa, bến cũ" do Trung tâm Thúy Nga thực hiện và phát hành, người diễn đọc (Nhà văn Nguyễn Ngọc Ngạn) lập lại câu văn của Hậu hán thư và phát biểu rằng Quan thái thú Nhâm Diên là người đã dạy cho dân Việt Nam cách trồng lúa.
     
  6. Trích Tổ quốc ăn năn (Paris, 2001) của Nguyễn Gia Kiểng, trang 306.
     
  7. Về các bài báo khoa học mang tính tiền phong trong ngành khảo cổ học ở Đông Nam Á, xin xem những bài sau đây: (i) "On the improbability of Austronesian origins in South China," của Giáo sư William Meacham, đăng trong Tạp san Asian Perspectives, quyển 25, năm 1984-5; (ii) "The nusantao and North-South dispersals," của Giáo sư Wilhelm G. Solheim II, in trong "Indo-Pacific Prehistory Association Bulletin," quyển 2, năm 1996; (iii) "Southeast Asia and Korea: from the beginings of food production to the first states," cũng của Giáo sư Solheim II, in trong "The History of Humanity: scientific and cultural development," quyển I: "Prehistory and the Beginning of Civilization," do UNESCO/Routledge (London) xuất bản năm 1994. Ngoài ra, độc giả có thể tham khảo thêm các bài báo tiếng Việt liên quan đến đề tài này của Tác giả Cung Đình Thanh trên Tạp san Tư Tưởng số 3, 4, và 7.
     
  8. Sách "Eden in the East: the Drowned Continent of Southeast Asia," của Stephen Oppenheimer, Nhà xuất bản Phoenix (London), 1998.  Sách khổ 13 x 20 cm, dày 560 trang, kể cả 47 trang tài liệu tham khảo và 28 trang bảng danh mục, chữ loại nhỏ (Times cỡ 8).  Giá đề 15 đô-la Canada, hoặc 9 sterling Anh.
     
  9. Theo sách Genesis, và theo truyền thuyết của nhiều nền văn minh cổ, ngày xưa có xảy ra một số trận lụt vĩ đại (hay đại hồng thủy) phủ ngập cả trái đất.  Huyền thoại về lụt nổi tiếng nhất là câu chuyện về Noah, một giáo trưởng, được của Thượng đế, xây dựng một chiếc thuyền lớn tên là Ark để gia đình ông ta và mọi sinh vật có thể sống sót qua cơn lụt.
     
  10. "Mực nước biển" là một thuật ngữ dùng để diễn tả chiều cao trung bình của biển.  Mực nước biển thường biến đổi qua nhiều giai đoạn trong lịch sử trái đất.  Trong thời gian vài nghìn năm trước đây, mực nước biển có khi cao hơn, nhưng cũng có khi thấp hơn, mực nước hiện nay.  Khi mực nước biển trung bình dâng lên cao, một số vùng đất hiện hữu ngày nay trong quá khứ hoàn toàn bị ngập lụt, tạo nên những vùng biển rộng và cạn.  Ngày nay, hơn phân nửa nhân loại sống trong những vùng đất mà độ cao so với mực nước biển chỉ dưới 100 thước.  Trong phạm vi tranh luận về hiện tượng nóng toàn cầu (global warming) ngày nay, người ta cho rằng nếu mực nước biển chỉ tăng khoảng một thước thì một thảm họa vĩ đại sẽ xảy ra cho các nước như Bangladesh, hay Phần Lan.  Người Maledives sẽ hoàn toàn bị xóa tên trên bản đồ nếu mực nước biển tăng vài ba thước.  Nhưng quan trọng hơn nữa, đối với đa số các thành phố lớn và đông dân như Tokyo, Thượng Hải, Kolkata, Mumbai, London, New York, Los Angeles … (những thành phố chỉ nằm trên mực nước biển), nếu nước biển dâng lên 100 thước, các nơi này sẽ thành một lục địa dưới lòng biển, một Atlantis thật sự.  Bởi thế, không có gì là gượng gạo khi chúng ta giả định rằng có nhiều trung tâm dân số và văn hóa khoảng 10,000 hay 15,000 năm về trước, nay đã trở thành những vùng dưới biển trên thềm lục địa phía ngoài vùng duyên hải của chúng ta.
     
  11. Về các phân tích di truyền học, có thể tham khảo các bài báo khoa học sau đây: (i) "Genetic relationship of populations in China", của Bài báo của Giáo sư J. Y. Chu và đồng nghiệp thuộc Trường Đại học Texas, đăng trên Tập san Proceedings of the National Academy of Science (USA) 1998; số 95, trang 11763-11768; (ii) "Khám phá mới di truyền học về nguồn gốc con người ở Đông Nam Á," của Nguyễn Đức Hiệp, đăng trên Tạp san Tư Tưởng, số 7, năm 2000, trang 9-13; (iii) “Y-chromosome evidence for a northward migration of modern humans into Eastern Asia during the last Ice age” của B. Su và đồng nghiệp, đăng trên Tạp san American Journal of Human Genetics, năm 1999, số 65, trang 1718-1724.

    nguồn: www.mevietnam.org