Sài Gòn Năm Xưa
Vương Hồng Sển
PHẦN THỨ NHỨT
NHẮC LẠI CUỘC NAM
TIẾN VĨ ĐẠI CỦA DÂN VIỆT
Nối dõi tổ tiên, trong cuộc Nam tiến vĩ đại
Đến bây giờ, còn phân phân bất nhứt: các học
giả vẫn bàn cãi không thôi chung quanh hai tiếng "Sài"
"Gòn", chẳng biết từ đâu, bởi đâu mà có. Kẻ nói vầy, người nói khác,
không ai chịu ai. Tranh luận mãi càng thêm rối trí, không bổ ích vào đâu. Một
điều an ủi chung cho hạng gàn như tôi là chính trong tập khảo cứu năm 1885, nhà
bác học uyên thâm trong Nam, cụ Trương Vĩnh Ký, cũng tỏ ra bối rối như ai!
*
Để dọn đường tìm hiểu thêm về nguồn gốc
"Sài Gòn" của người Việt, chúng tôi trước tiên, xin tóm tắt cuộc Nam
tiến như sau:
Căn cứ theo tài liệu lịch sử để lại, đại cương
cuộc Nam tiến không ngừng của dân tộc Việt Nam gồm có những năm nầy, quan trọng
nhứt:
- 939, tổ tiên Việt còn ở vùng Thanh Hoá, và nhờ
có ông Ngô Quyền, cởi được ách Bắc thuộc, mở đường cho Đinh, Lê, Lý, Trần, về
sau được tự chủ ở cõi Nam.
- 1069, xuống đến Quảng Bình, Quảng Trị;
- 1307, nhà Trần gả Huyền Trân Công Chúa cho
vua Chàm, mở rộng cõi bờ thêm hai châu Ô Lý (Thừa Thiên);
- 1425, đến Thuận Hoá;
- 1471, đến Quy Nhơn;
- 1611, đến Phú Yên;
- 1653, đến Nha Trang;
- 1658, Cao Miên xin thần
phục chúa Nguyễn, nhìn nhận quyền của triều đình Huế;
- 1680, Nguyễn chúa cho
bọn tàn binh nhà Minh khai khẩn hoang địa vùng Đồng Nai;
- 1693, đến Phan Thiết;
- 1698, đến Biên Hoà và
Gia Định (Sài Gòn);
- 1708, MẠC CỬU dâng Hà
Tiên cho chúa Nguyễn, Mạc được phong làm tổng binh đời đời vĩnh trấn Hà Tiên;
- 1755, Cao Miên quốc
vương nhượng đất Tân Bôn và Lôi Lạp cho Võ Vương. Trong Nam, ông Nguyễn Cư Trinh
với những kế hoạch khẩn hoang, dinh điền ở miền Nam. Vào cuối thế kỷ XVIII, tại
Gia Định, Trịnh Hoài Đức, Ngô Nhơn Tịnh, Lê Quang Định, ba người cùng lập thị
xã nâng cao đuốc văn hiến một thời:
- 1780, MẠC THIÊN TỨ (con
MẠC CỬU) mất, không con nối hậu. Từ đây, đất Hà Tiên sát nhập cơ đồ Nguyễn
chúa: cuộc Nam tiến của dân tộc Việt Nam, đến đây đã hoàn thành.
Bản đại lược tóm tắt như
trên, gọn thì có gọn, nhưng quá vắn tắt nên khó tránh sự tối nghĩa, và kém sáng
suốt, nhứt là đối với những người không nằm lòng lịch sử nước nhà.
Về tổ chức đồn điền, xét
ra đã có từ đời Hồng Đức (Lê Thánh Tôn)[1], từ ngày vua Lê Lợi đuổi được quân
Tàu, thế nước rất mạnh, hiềm vì đất đai chật hẹp không đủ cho dân cày cấy, nên
Lê Thánh Tôn thi hành chánh sách bành trướng vào Nam, lập kế đồn điền. Tổ chức
nầy có hai phương lợi: một là trấn an biên thùy, hai là mở rộng bờ cõi một cách
hoà bình. Nhơn thế, một chức quan được đặt ra, gọi quan Thu ngự kinh lược sứ,
với nhiệm vụ chiêu tập những lưu dân (gồm những dân tình nguyện, những người
phải tội lưu trú ngoài biên cương, hoặc những người bỏ làng để trốn lính và
tránh sưu thuế... ). Những người ấy được đưa đi khai khẩn đất hoang, và được
quan kinh lược giúp đỡ và ủng hộ. Họ lấn sang đất Chiêm Thành rồi sau này đất
Thủy Chân Lạp và vẫn yên tâm mở rộng khu vực vì sẵn bên có quân đội bảo vệ an
ninh.
Sau một hai đời, thì những
hạt mới được sung nhập lãnh thổ Việt. Lần lần, những lưu dân miền Bắc, miền
Trung, dùng phương pháp "tàm thực" ấy mà mở rộng đất đai bờ cõi Việt
từ sông Cả đến tận mũi Cà Mau. Sự bành trướng nầy đến ngày chạm súng với Lang
Sa mới ngưng.
Nhơn đây là bài khảo cứu
về căn cội đất Sài Gòn, và muốn cho đầy đủ, chúng tôi không sợ lẩn thẩn, mà
thuật lại có đầu có đuôi "công cuộc mở mang bờ cõi" của tổ tiên ta
trong cuộc Nam tiến, tính ra kéo dài trên tám trăm năm (từ năm 939 đến năm
1780) mới hoàn thành. Có một khoảng trên dưới một trăm năm, cần phải nhấn mạnh
nhứt là khoảng từ năm 1658 đến năm 1759, tức đoạn tổ tiên ta chung đụng với
người Cam Bốt, trên cõi Nam nầy. Ngày nay nước Cao Miên và nước Việt Nam là hai
người bạn thân, lẽ đáng không nên khơi lại chuyện cũ. Nhưng nghĩ vì đây là lịch
sử nên chúng tôi xin hết sức thận trọng, vô tư và khách quan, thuật lại như sau
để đánh tan những hiểu lầm.
1. Cõi Nam từ
năm 1658 đến năm 1753
Lúc ấy đã có người Cam Bốt
ở trên đất Nam nầy rồi. Nói chính đáng mà nghe, từ Huế, Chúa Hiền Vương đã từng
cắt quân đi chinh phục miền Nam. Quân ta cả thắng Chàm và sau những chiến công
rực rỡ, dân Việt đã có dịp chen vai thích cánh với người Khơ me, nơi những vùng
biên giới cũ Chàm, kể từ năm 1658.
Một điều nên nhớ kỹ, là
vào thời buổi ấy, DÂN THƯA ĐẤT RỘNG, DÂN LÀM ĂN KHÔNG HẾT, việc đi khai khẩn
đất hoang là thường sự và không hề sanh ra việc gì rắc rối. Tục thường ví
"CHIM TRỜI CÁ NƯỚC", ai bắt được nấy nhờ.
Một điều khác cần nói rõ
thêm là đất miền Nam của bán đảo Ấn Độ - Chi Na cũng không phải thiệt thọ
"phần đất phụ ấm" của Khơ me. Sự thật thì dòng thổ dân tiên chiếm
vùng nầy là giống Phù Nam đã bị tiêu diệt từ thế kỷ thứ VII, và có thể người
Khơ Me chiếm thay người Phù Nam từ thế kỷ thứ VII, lại mấy có sự đòi hỏi tranh
tụng gì? Tha hồ lúc ấy ai khai phá được khoảnh nào thì nấy làm chủ ăn hoa lợi.
Và như đã nói "đất ở không hết", tội gì tranh giành cho nhọc lòng lo,
cho mệt xác. Sợ nhứt là làm như vậy, chỉ sanh oán thù, ích gì?
Gương xưa tích cũ còn
trước mắt sờ sờ:
- Pháp quốc đã giàu mạnh,
nhưng còn nhà đất Gia Nã Đại, chẳng qua lúc ấy vừa chê xa xôi, vừa chê ít hoa
lợi...
- Trung quốc là nước lớn,
thế mà cắt đất Mã Cao để làm nhượng địa cho Bồ Đào Nha, rồi cũng cắt đứt Hương
Cảng làm nhượng địa cho Anh Quốc, chung quy cũng vì thời buổi ấy hai chỗ nầy
chỉ núi đá trơ trơ, toàn đất hoang vu không sanh hoa lợi, "mất" hay
"bỏ" vẫn không tiếc...
Nhắc lại, sau khi nhà Minh
bên Trung Quốc bị nhà Mãn Châu thay thế, thì năm 1680, bọn di thần Minh triều
như Dương Ngạn Địch, Huỳnh Tấn, Trần Thắng Tài, v.v... tự xưng người
"Trường Phát" (tóc dài) không khứng đầu hàng Thanh triều, vì họ ghét
tục dân Mãn Châu cạo đầu gióc bín (để đuôi sam như đuôi lừa). Bởi rứa, theo sử
chép lại, các tướng ấy dìu dắt độ ba ngàn tinh binh trung thành với cựu trào,
lướt sóng trên năm mươi, sáu mươi chiến thuyền vượt trùng dương tìm xuống miền
Nam, xin đầu hàng chúa Nguyễn, vì dân Nam cũng để tóc dài và trung thành với
đạo Khổng Mạnh như họ. Đứng trước tình trạng khó xử này, chúa Hiền Vương trong
lòng bối rối không vừa, vì kỳ trung chúa chẳng muốn gần gụi đám vong thần bất
trị ấy; nhưng với trí tinh khôn có thừa, ngoài mặt chúa giả cách niềm nở tận
tình. Chúa bày tiệc khoản đãi quân sĩ nhà Minh rồi "tống khứ" họ
xuống miền Đông Phố[2], cho họ được phép chiếm cứ vùng Đồng Nai thưở đó tuy
thuộc lãnh thổ Khơ Me, nhưng Miên Vương tỏ ra không bận tâm nhiều đến vùng
hoang địa ranh mức tầm ruồng nầy. Như thế, nhơn một mũi tên, chúa Nguyễn bắn
được hai chim; một đàng, được lòng người Tàu vì làm cho họ có chỗ dung thân,
đàng khác nhơn cơ hội, mượn tay tha nhơn, mở rộng bờ cõi một cách hoà bình,
không tốn hao binh sĩ; thật là ngón ngoại giao sắc cạnh khôn bì.
Nhắc lại, được lịnh Chúa
Nguyễn, tướng Dương Ngạn Địch kéo quân xuống chiếm đóng vùng Mỹ Tho trên sông
Tiền Giang (Mékong); còn Trần Thắng Tài, Huỳnh Tấn, và Trần An Bình thì đem bổn
bộ binh mã đến chiếm cứ vùng Biên Hoà, trên con sông Đồng Nai. Vì không nói
được chữ "đ" nên họ vẫn gọi "Đồng Nai" ra "Nồng
Nại".
Khi người Khơ Me đụng độ
với người Tàu thì đã lấy làm bực mình vì phong tục khác xa, không dè đến khi ăn
chung ở lộn với dân "duồng", họ lại càng thêm khó chịu. Họ ngầm ghét
đám dân "Đồn điền" mới.
Lần hồi, không cử động
binh đao, mà người Cam Bốt (Campuchia) tự rút lui về miền thượng Lục Chân Lạp
(Haut Cambodge) bỏ đất hoang Thủy Chân Lạp (Basse Cochinchine) cho mặc tình
người Trung Quốc và Việt Nam tha hồ khai phá. (Cái nghiệp "hay hờn
mát" và "ưa giận quàng xiên" của người Miên đến nay vẫn chưa bỏ.
Tỷ dụ như lối năm 1920, dân Miên và dân Việt đua nhau khai thác xin khẩn đất
hoang dọc theo kinh xáng mới đào vùng Phước Long và Vĩnh Qưới (Rạch Giá) để làm
ruộng. Mỗi khi đôi bên không thuận nhau về quyền tiên chủ sở đất nào, thì người
Miên thường thách đố người Việt hãy đồng lòng đem sở đất tranh chấp "hiến
nạp" ngon lành cho viên chức sở tại, như vậy thì họ sẽ hết giận, báo hại
quan thinh không phát tài ngang! Nhưng người Việt đâu chịu làm vậy và thường có
cách khéo giải hoà với bạn Miên khỏi "làm giàu vô cớ" cho quan! Duy
ngày nay, còn giận ai nữa mà Miên vẫn cất nhà xây mặt tiền vào vườn, ít chịu
xây mặt ra đường cái hay ngó ra con sông tấp nập?
Nhắc lại năm Giáp Dần
(1674), Chúa Hiền đã tầng sai binh xuống can thiệp vào việc nội bộ nước Miên do
Nặc Ông Non cầu cứu dẹp hộ binh Xiêm. Đến khi vua Miên thấy cảnh ở Sài Gòn bị
kẹp giữa hai gọng kềm "Chệc"[3], bèn cầu cứu với triều Huế, Chúa Hiền
nhân cơ hội ấy để sai nha trảo xuống dàn xếp... Thêm một cơ hội may mắn đến cho
triều Huế là vào năm 1688 giữa người Tàu Mỹ Tho và người Tàu Cù Lao Phố sanh ra
sự bất hoà lớn. Chúa Hiền khi ấy đã mất, nhưng Ngãi vương nối ngôi không kém sự
trí mưu. Huỳnh Tấn giết Dương Ngạn Địch, binh chưa lại nghỉn thì kế bị Chúa
Ngãi ra tay trước, giết Huỳnh Tấn, dẹp tan đám giặc khách sót lại ở Mỹ Tho mà
làm chủ tình thế hai thị trấn tân tạo Mỹ Tho và Cù Lao Phố (Biên Hoà).
Chúa thừa thắng cho binh
tướng kéo rốc lên Cam Bốt tới trước thành Gò Bích, Miên Vương một mặt dẫn phi
tần về thành U Đông, mặt khác sai sứ nạp biểu. Chúa Ngãi cho dân, quân về an
dinh lập trại Bến Nghé. Công việc ấy gọi là “đồn dinh”[4].
Thuở đó, xứ Cam Bốt có đến
hai vua:
- Vua Nhứt, Chánh Vương,
ngự tại thành Lo Vek (sách sử Việt âm là “La Bích” hoặc “Gò Bích” (Trương Vĩnh
Ký); (trong Việt Nam Sử lược, Trần Trọng Kim, trang 329, ghi “thành Long Úc”,
phải Lo Vek này chăng?!)
- Vua Nhì, tức Phó Vương,
đóng đo tại Prei Norkor, sau này Sài Gòn.
Một nước hai vua, một xứ
hai mặt trời, đây là một tình thế lưỡng lập vạn bất đắc dĩ, không bao giờ tồn
tại được lâu. Về sau, nếu có xảy ra sự di dân Khmer tự mình bỏ Thủy Chân Lạp
rút lui về Lục Chân Lạp, âu cũng vì một lẽ Chánh Vương ngầm muốn để còn một vua
đặng dứt hậu hoạn về sau, một lẽ nữa, cũng tại lòng dân Miên mà cũng có tay
Trời già ở trong!
Prei Norkor vào thời bấy
giờ, là một thôn nhỏ trong rừng già dựa kề một đồn kiên cố, dân cư thưa thớt,
nhà cửa lèo tèo, cột cây nóc lá, tập trung trên các gò nổng cao ráo, chung
quanh là ao sình nước đọng quanh năm, sâu vô trong nữa thì toàn là rừng rú thiên
nhiên đã có từ tạo thiên lập địa, không ai khai phá, đầy rẫy muỗi mòng, đỉa vắt
và thú dữ: tây, tượng, hùm beo, khỉ, sấu... Prei Norkor dùng làm nơi đồn trú
của Phó Vương Cao Miên (một cái gai trong mắt Chánh Vương.)
Việt Sử Trần Trọng Kim
nói:
“Năm Mậu Tuất (1658), vua
nước Chân Lạp mất, chú cháu tranh nhau, sang cầu cứu bên chúa Nguyễn, chúa
Nguyễn bấy giờ là chúa Hiền sai quan đem ba ngàn quân sang đánh ở Mỗi
Xuy[5](nay thuộc Phúc Chánh, Biên Hòa) bắt được vua là Nặc Ông Chân đem về giam
ở Quảng Bình một độ, rồi tha cho về nước, bắt phải triều cống và phải bênh vực
người An Nam sang làm ăn ở bên ấy.
“Năm Giáp Dần (1674), nước
Chân Lạp có người Nặc Ông Đài đi cầu viện nước Xiêm La để đánh Nặc Ông Nộn.
“Nặc Ông Nộn bỏ chạy sang
cầu cứu ở dinh Thái Khang (nay là Khánh Hòa). Chúa Hiền bèn sai cai cơ đạo Nha
Trang là Nguyễn Dương Lâm cùng với Nguyễn Đình Phái làm tham mưu đem binh chia
ra làm hai đạo sang đánh Nặc Ông Đài, phá được đồn Sài Gòn rồi tiến quân lên
vây thành Nam Vang. Nặc Ông Đài phải bỏ thành chạy vào chết ở trong rừng. Nặc
Ông Thu ra hàng. Nặc Ông Thu chính là dòng con trưởng nên lại lập làm chánh
quốc vương đóng ở Long Úc, để Nặc Ông Nộn đóng ở Sài Gòn, bắt hàng năm phải
triều cống.
“Năm Mậu Thìn (1688),
Hoàng Tiến[6]giết Dương Ngạn Địch, rồi đem chúng đóng đồn ở Nam Khê, làm tàu,
đúc súng để chống nhau với người Chân Lạp. Vua Chân Lạp là Nặc Ông Thu cũng đào
hào đắp lũy làm kế cố thủ và bỏ không chịu thần phục chúa Nguyễn nữa.
“Bấy giờ chúa Nguyễn là
Nguyễn Phúc Trăn sai quan đem quân[7]đi đánh dẹp, dùng mưu giết được Hoàng Tiến
và bắt vua Chân Lạp[8]phải theo lệ triều cống[9].
Năm Mậu Dần (1698), chúa
Nguyễn là Nguyễn Phúc Chu sai ông Nguyễn Hữu Kính[10]làm kinh lược đất Chân
Lạp, chia đất Đông Phố (Giản Phố) ra làm dinh, làm huyện, lấy xứ Đồng Nai làm
huyện Phúc Long và xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình[11]Đặt Trấn Biên dinh (tức
Biên Hòa) và Phiên Trấn dinh (tức Gia Định) sai quan vào cai trị. Lại chiêu mộ
những kẻ lưu dân từ Quảng Bình trở vào để lập ra thôn xã và khai khẩn ruộng
đất. Còn những người Tàu ở đất Trấn Biên (Biên Hòa) thì lập làm xã Thanh Hà:
những người ở đất Phiên Trấn (Gia Định) thì lập làm xã Minh Hương. Những người
ấy đều thuộc về sổ bộ nước ta”.
(Việt Nam Sử lược, Trần
Trọng Kim, trương 329-330)
2. Từ năm 1753
đến năm 1780
Xin kể lại những năm oanh
liệt nhất để đánh dấu những kỳ công của tổ tiên ta:
Năm 1753, vua Chân Lạp Nặc
Ông Nguyên lấn hiếp người Côn Man ở trong Nam, triều đình Huế bèn cử ông Nguyễn
Cư Trinh làm quan tham mưu lo việc đánh dẹp. Ba phen thắng giặc, Cư Trinh bèn
hiến kế “tàm thực” làm cho mười năm sau hoàn thành cuộc mở mang: Thủy Chân Lạp
hoàn toàn về tay chúa Nguyễn ở Đàng Trong.
Bấy giờ miền rừng
sác[12]hoang vu, cực nam là vùng Lòi Lạp (Gò Công), Tầm Bôn (Tân An) và vùng
các cửa sông Cửu Long (Ba Thắc[13]tức vùng Sóc Trăng, Bạc Liêu) và Trà Vang
(Trà Vinh, Bến Tre), còn thuộc Chân Lạp.
Đồng thời với việc thôn
tính nước Chiêm (1611-1692), chúa Nguyễn đã tiến lần xuống miền Đồng Nai phì
nhiêu. Hơn một thế kỷ (1623-1739), do việc giành ngôi lẫn nhau của các vua Miên
mà chúa Nguyễn lần hồi thâu phục dân Việt dần dần mở mang các đất đai: Mô
Xoài[14](Bà Rịa, Biên Hòa) (1658), Sài Gòn (Gia Định) (1698), Định Tường (Mỹ
Tho) và Long Hồ (Vĩnh Long) (1731). Phía vịnh Xiêm La, MẠC CỬU dâng đất Hà Tiên
và hòn Phú Quốc cho chúa Nguyễn từ năm 1741, sau đó con là MẠC THIÊN TỨ mở thêm
bốn huyện (1739): Long Xuyên (miền Cà Mau), Kiên Giang (Rạch Giá), Trấn Giang
(miền Cần Thơ) và Trấn Di (miền bắc Bạc Liêu).
Đến triều Võ Vương, vua
Chân Lạp Nặc Ông Thu (Sthea) nhờ chúa Nguyễn mà giữ ngôi báu ở La Bích (Lovek)
(1736 - 1748). Sau Nặc Ông Thâm (Thomae), chú của Tha, thua chạy trốn bên Xiêm
từ năm 1715, lại trở về đánh đuổi Nặc Ông Tha và cướp ngôi (1748) song chẳng
bao lâu thì mất.
Mấy người con của Thâm
tranh ngôi. Võ Vương sai Nguyễn Hữu Doãn làm thống suất đánh dẹp và lập Nặc Ông
Tha làm vua trở lại. Được vài tháng, Tha bị con của Thâm là Nặc Nguyên (Ang
Snguôn) đen quân Xiêm đánh đuổi (1750). Tha thua, chạy sang Gia Định cầu cứu
nhưng chết ở đấy.
Nặc Nguyên tranh được ngôi
vua lại thường đem binh lấn hiếp người Côn Man là tàn tích dân Chiêm sang trú
ngụ từ năm 1693.
Về phía Bắc, Nặc Nguyên
lại thông sứ với Chúa Trịnh Doanh (1740-1767) để lập mưu đánh Chúa Nguyễn quyết
giành lại Thủy Chân Lạp.
Mùa đông năm Quý Dậu
(1753), Võ Vương sai ông Thiện Chính (khuyết tên)[15]làm thống suất và ông
Nguyễn Cư Trinh, ký lục Bố Chánh Dinh làm quan tham mưu, điều khiển tướng sĩ
năm dinh đi đánh giặc Nguyên. Quân tiến đến Ngưu Chử (Bến Nghé), lập dinh trại,
kén sĩ tốt, trừ bị thêm nhiều, để làm kế khai thác.
Mùa hạ năm Giáp Tuất
(1754), ông Cư Trinh với ông Thống suất chia quân tiến lên. Oâng Cư Trinh đi
đến đâu, giặc quy phục đến đó; đi qua đất Tần Lê (?) ra đến Sông Lớn[16]cùng
hội quân với ông Thiện Chính ở đồn Lôi Lạp (Soi Rạp: Gò Công), phủ Tầm Bôn (Tân
An), phủ Cầu Nam (Ba Nam), phủ Nam Vinh (Nam Vang: Phnôm Pênh), bốn phủ hàng
cả. Rồi chiêu phục người Côn Man để làm thanh thế.
Nặc Nguyên chạy trốn gần
Vĩnh Long; gặp mùa nước nổi, phải ngưng đánh phá.
Mùa xuân năm Ất Hợi
(1755), ông Thống suất về đồn Mỹ Tho, dẫn theo hơn vạn người Côn Man mới chiêu
phục. Đến đất Vô Tà Ân (có lẽ là vùng Đồng Tháp Mười) bị quân của Nặc Nguyên đổ
ra đánh úp. Quân của thống suất đi tập hậu bị mắc bụi rậm vũng lầy, không thể
đến cứu viện. Ông Nguyễn Cư Trinh mới đem quân của ông đến cứu thoát hơn năm
người Côn Man, vừa trai vừa gái, rồi đem về trú ở núi Bà Dinh (Bà Đen).
Nhân ông Cư Trinh hạch tấu
ông Thiện Chính về tội để mất cơ nghi mà bỏ dân mới phục hàng, vua giáng ông ấy
xuống chức cai đội, cho ông Trương Phúc Du thay thế.
Ông Cư Trinh với ông Phúc
Du và người Côn Man đi tiên phong đến đánh hai phủ Cầu Nam và Nam Vinh.
Nặc Nguyên thua, chạy trốn
sang Hà Tiên nương theo Mạc Thiên Tứ, nhờ Tứ xin hộ với Chúa Nguyễn, hiến hai
phủ Tân Bôn, Lôi Lạp để chuộc tội, và bổ vào lệ triều cống đã bỏ ba năm về
trước, cùng để xin cho về nước.
Vua không cho. Ông Cư
Trinh mới dâng sớ tâu rằng:
"Từ xưa, sở dĩ dùng
đến binh, chẳng qua là muốn giết đứa cừ khôi, mở mang bờ cõi mà thôi. Nay Nặc
Nguyên đã hối quá, biết nộp đất hiến của. Nếu không cho y hàng, thì y chạy
trốn; mà từ Gia Định đến La Bích, đường sá xa xôi, không tiện đuổi đánh. Vậy
muốn mở mang bờ cõi, chi bằng hãy lấy hai phủ ấy, giữ chặt phía sau cho hai
dinh (Phiên Trấn và Trấn Biên). Năm xưa, đi mở phủ Gia Định, trước phải mở phủ
Hưng Phúc (Biên Hoà), rồi mới mở đến phủ Lộc Dã (Đồng Nai) để quân dân đoàn tụ,
rồi mới mở đất Sài Côn. Đó là cái kế "tằm ăn dâu" đó.
Nay từ Hưng Phúc đến Sài
Côn đường đi chỉ hai ngày, mà dân cư còn chưa yên tập, quân giữ cũng có đứa
chưa khỏe; phương chi từ Sài Côn đến Tầm Bôn, đường đi trong sáu ngày, thú binh
trụ phòng, thực sợ chưa đủ.
Thần thấy rợ Côn Man đánh
đường bộ rất tài, quân Chân Lạp cũng đã chột dạ. Nếu cho rợ Côn Man ở đấy, sai
nó ngăng chống, lấy mọi đánh rợ, cũng là kế hay. Vậy nên xin cho nước Chân Lạp
chuộc tội, lấy hai phủ ấy, cho thần xem xét tình thế, đặt lũy đóng quân, cấp
điền sản cho quân dân, chia địa giới, lấy châu Định Viễn để thâu cả toàn
bức."
(Rút trong quyển
"Nguyễn Cư Trinh với quyển Sãi Vãi" của hai ông Lê Ngọc Trụ và Phạm
Văn Luật.)
Vua theo lời tâu, nhận lấy
hai phủ (1756) và cho Nặc Nguyên về nước.
Năm Đinh Sửu (1757), Nặc
Nguyên chết, chú họ là Nặc Nhuận (Neac Ang Nhuan) làm gián đốc, xin hiến đất
Trà Vang (Trà Vinh, Bến Tre) và Ba Thắc (Sóc Trăng, Bạc Liêu) để cầu được chúa
Võ Vương phong làm Vua. Song không lâu, Nhuận bị rể là Nặc Hinh nổi loạn giết
chết cướp ngôi (1758).
Cháu của Nặc Nhuận là Nặc
Tôn, con của Nặc Nguyên, chạy sang Hà Tiên cầu cứu với Mạc Thiên Tứ, Thiên Tứ
dâng sớ tâu qua các việc và xin phong Nặc Tôn làm vua Chân Lạp. Võ Vương thuận
cho, sai tướng Ngũ dinh tại Gia Định hợp với Thiên Tứ lo việc ấy. Trương Phúc
Du đem binh đánh dẹp, Nặc Hinh thua chạy, bị kẻ thuộc hạ giết. Hoàng tử Nặc Non
cùng hoàng gia chạy trốn bên Xiêm.
Nặc Tôn được Mạc Thiên Tứ
đưa về nước lập làm vua, và được Võ Vương sắc phong chức Phiên Vương.
Để tạ ơn Võ Vương, Nặc Tôn
hiến đất Tầm Phong Long (Châu Đốc và Sa Đéc) (1759). Rồi cắt năm phủ: Hương Úc
(Kompong Som), Cần Bột (Kampot), Sài Mạt (Cheal Meas), Chưng Rừm, Linh Quỳnh
(vùng duyên hải từ Sré Ambel đến Peam) để riêng tạ ơn Thiên Tứ. Mạc Thiên Tứ
đều dâng cả cho chúa Nguyễn[17]. Võ Vương bèn dạy sát nhập vào trấn Hà Tiên.
Thế là vừa trọn một thế kỷ
(1658 - 1759), Thủy Chân Lạp hoàn toàn thuộc về Việt Nam.
(Tài liệu mượn trong quyển
“Nguyễn Cư Trinh” với quyển “Sãi Vãi” của hai ông Lê Ngọc Trụ và Phạm Văn Luật,
trang 45-49).
Đoạn trên kể lại công
ngiệp khai mở bờ cõi của một vị tướng văn võ toàn tài là ông Nguyễn Cư Trinh.
Cư Trinh lại rất có công về cuộc phòng thủ lâu dài.
Ông giỏi phương pháp “dĩ
địch chế địch” nên đặt người Côn Man thủ Tây Ninh và Hồng Ngự (Châu Đốc), nay
hai chỗ này còn di tích người Chàm. Chính ông Cư Trinh xin dời dinh Long Hồ lên
xứ Tầm Bào, cũng thuộc tỉnh lỵ Vĩnh Long.
Về mặt thủy đạo, ông sai
lập đồn hai bên sông Cửu Long gần biên giới:
-Tân Châu đạo (Cù Lao
Giêng) ở Tiền Giang.
-Châu Đốc đạo ở Hậu Giang.
- Thêm lậpĐông Khẩu đạo ,
ở xứ Sa Đéc, để làm hậu thuẫn.
Các đạo ấy dùng binh ở
Long Hồ dinh để trấn áp, giữ mặt vịnh Xiêm La, phòng Xiêm làm hỗn, Cư Trinh và
Thiên Tứ đặt raKiên Giang đạo ở Rạch Giá vàLong Xuyên đạo ở vùng Cà Mau.
Ông Cư Trinh lại rất giàu
sáng kiến. Ông lo tổ chức sự an ninh vùng đất mới, đảm bảo sự thông thương buôn
bán trên vùng rạch hồ. Như thuở ấy, khúc sông Gia Định còn nhiều chỗ xưng bá,
thuyền cướp tụ tập phá khuấy ghe thương hồ (ngày trước còn để lại tàn tích “bối
Ba Cụm” thuộc vùng Bình Điền, Tân Bửu, v.v...), Cư Trinh bày ra lệ bắt thuyền
các Hạt, bất luận lớn nhỏ, trước mũi phải khắc tên họ, quê quán, chủ thuyền và ghi
bộ quan sở tại để tiện tra xét.
Nguyễn Cư Trinh còn là một
văn nhơn tài tử, ông thường ngâm vịnh, sang Phương Thành (Hà Tiên) nhập Chiêu
Anh Các xướng họa cùng Mạc Thiên Tứ. Hai người rất là tương đắc, Thiên Tứ có ra
mười bài“Hà Tiên thập cảnh vịnh ” (nay còn truyền tụng). Cư Trinh có họa đủ
mười bài.
Kể lại trong Nam, đời ấy
công nghiệp lớn nhất có hai ông:Nguyễn Cư Trinh vàMạc Thiên Tứ. Ông trước cầm
binh ra trận, thi phú tài tình; Ông sau giỏi ngón ngoại giao và văn chương tao
nhã. Cả hai mở rộng bờ cõi Miền Nam cho chúng ta được hưởng ngày rày.
Đồng thời tại Gia Định,
trong nhóm người Minh Hương, có ba ông:Trịnh Hoài Đức ,Ngô Nhơn Tịnh vàLê Quang
Định đều là những bực công thần có công xây dựng cõi Nam, đua nhau nâng cao nền
văn hiến Việt và tận tâm giúp chúa Nguyễn thâu lại cơ nghiệp tổ tiên thống nhất
giang san. Hà Tiên cóChiêu Anh Các , Gia Định cóThi hữu tam gia không kém.
Năm 1780, Mạc Thiên Tứ từ
trần, không con nối hậu. Đất Hà Tiên từ đây sát nhập cơ đồ Nguyễn Chúa:
CUỘC MỞ MANG
BỜ CÕI CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM ĐẾN ĐÂY, KỂ NHƯ ĐÃ HOÀN THÀNH.
[1]Lê Thánh Tôn
(1460-1497); Niên hiệu:Quang Thuận (1460-1469), Hồng Đức (1470-1497)
[2]Nên gọi "Đông
Phố" hay là "Giản Phố"?
a).- Danh từ "Đông
Phố" đã trở nên bất hủ vì bài văn quan Tiền quản quận công Nguyễn Văn
Thành tế trận vong tướng sĩ năm 1802 có câu:
"Than ôi! Trời Đông
Phố vận ra Sóc cảnh... "vân vân. Theo chú thích trongQuốc Văn Trích Diễm
của Dương Quảng Hàm, trương 132, thì "Đông Phố" là tên cũ thành Gia
Định.
b). - Theo giáo sư Nghiêm
Toản, thì: Đông Phố, thực ra là "Giản Phố",vì lẽ chữ "Giản"
và chữ "Đông" viết theo chữ Hán nét gần giống nhau, chỉ khác hai chấm
thay vì một nét. Truy thêm ra, thì "Giản Phố" do nơi "Giản Phố
Trại" mà ra, và "Giản Phố Trại" tức là "Cambodia" do
người Tàu âm ra tiếng của họ và vẫn đọc "Kan-pou-tchai", tức
"Cambodge" ngày nay vậy. Như vậy, thì đúng hơn nên gọi "Giản
Phố" hơn là "Đông Phố", nhưng cái gì cũng không mạnh hơn thông
tục.
[3]a). -Chệch hayChiệc, do
"thúc" là "chú", giọng Triều Châu. Nghĩ họ chơi gác thật,
thuở ấy bắt mình kê vai kênh họ lên rất cao; "Chú Chệch", "Thím
Xẩm" (Quảng Đông gọi "thím" là "xẩm"). Rồi nào
"Ông Tây", "Bà Đầm", thậm chí "Anh Bảy Chà",
v.v...
b).- Người Miên gọi dân
Trung Hoa là "chênh". Truy ra, có đến hai điển: "Chênh" là
"Thanh" Tsing thì có đời Mãn Châu. Nếu "Chênh" do
"Tsin" thì xưa đến đời Tần.
[4]Năm Quý Dậu 1753 (tức
năm thứ 16 chúa Thế Tôn, Võ Vương), chúa sai Thiện chính hầu làm Cai đội và
Nghi biểu hầu Nguyễn Cư Trinh là ký lục, dẫn binh năm dinh: Bình Khánh (nay
Khánh Hòa, Bình Thuận), Trấn Biên (nay Biên Hòa), Phiên Trấn (Gia Định) và Long
Hồ (Vĩnh Long), tựu tại Bến Nghé, nơi sau này gọi là “Đồn Dinh”. (Tài liệu theo
bản dịch ra Pháp văn của học giả Gaspardone dịch từ bản chữ Hán “Gia Định thông
chí” của Trịnh Hoài Đức. Bản chép tay mang số A.708 q. 9-4, fo 12 của trường
Viễn Đông Bác cổ, Hà Nội). Nhà học giả L. Malleret độ chừng “Đồn Dinh” ở tại
chỗ góc đường Thuận Kiều giáp rạch Nhiêu Lộc. Ngày nay đường Thuận Kiều đổi lại
gọi đường Lê Văn Duyệt. Còn rạch Nhiêu Lộc có phải ở gần mộ ông này, chúng tôi
mới tìm thấy trong vùng đấy thuộc dinh thự của nhân viên phi trường Tân Sơn
Nhất, bọc theo con đường Võ Tánh chạy dài qua hồ tắm Chi Lăng, mộ này ở khoảng
giữa hai đường Võ Di Nguy và Ngô Đình Khôi trong vòng rào, ngay chỗ vừa đào một
ngôi mộ xưa để mở rộng con đường Võ Tánh ( xem lại kỹ Bulletin de la Socie'te'
des Etudes Indochinoises, Oct-Dec. 1935, tr. 18 - 19 )
Cũng trong tập kỷ yếu
B.S.E. I. nói trên, qua trương 35, học giả Malleret viết:
"... Alors le
soucerain légitime dut s'enfuir à Phú Quộc Enter temps, le chef "rebelle
Lư avait pris le titre de Đô Định Vương, "écrit Aubaret, c'est-àdire roi
de Đon Dinh."
Chỗ này, học giả Pháp đã
lẫn lộn "Đông Định Vương" lại với "Đồn Dinh" rồi. Trương
30, ông Malleret ghi rằng theo Gia Định Thông Chí (q.4, fo 31 ms EFEO) có nói
năm Gia Long thứ 10, lịnh dạy dời "Đồn Dinh" qua chợ Điều Khiển, xóm
(lân) Tân Hội.
Trái lại, trong Đại Nam
Nhất Thống Chí (Pháp dịch "la Ghéographie de Tu Đuc" ), thì nói Đồn
Dinh " từ xóm Tân Mỹ được dời về xóm "Tân Thuận". Tác giả, ông
Malleret, kết luận "Đồn Dinh" ở trong địa phận huyện Tân Bình.
Chung quy, "Đồn
Dinh" và "chợ Điều Khiển" chưa ai biết đích xác ở tại đâu.
[5]Nam gọi Mỏ Xoài.
[6]Nam gọi là Huỳnh Tấn.
[7]Theo cuốn
"Souvenirs historiques" của ông Trương Vĩnh Ký thì vị quan tướng này
tên "Vạn" nhưng không rõ họ gì.
[8]Chey Chetta IV.
[9]Theo "Souvernirs
historiques" ông Trương Vĩnh Ký nói vì Nặc Ông Thu bất tuân điều ước nên
chúa Ngãi sai Nguyễn Hữu Hào chinh phạt bắt được Ông Thu đem về Sài Gòn, đến đây
người thọ bịnh từ trần, Phó Vương Miên tự vận chết theo.
[10]Nam gọi là Nguyẽn Hữu
Cảnh.
[11]Vì thế, người vùng Đồng Nai cũng được gọi
là “người hai huyện”. Đừng lầm với “người hai huyện” vùng Hậu Giang đồng một
thuở, là người huyện Phong Phú (Cần Thơ) và huyện Đông Xuyên (Long Xuyên).
[12]Nhiều học giả viết “rừng sát”(với chữ “t” ở
chót) và đinh ninh rằng trúng. Phải chịu khó tra cứu bộ Đại Nam quốc âm tự vị
của ông Huỳnh Tịnh Của, trang 276 mới thấy:
“Sác”: cây nước mặn.
“Rừng sác”: rừng nước mặn (ở gần biển)
Vậy xin đính chính.
[13]Tại chợ cũ Bãi Xàu, có một ngôi cổ miếu đề
“Ba Thắc cổ miếu” chung quanh cổ thọ um tùm, tương truyề đây là một địa điểm
linh thính của Cổ Cao Miên gọi là Neak Ta Srock Passac _ (V.H.S)
[14]Việt Nam Sử lược Trần Trọng Kim gọi là Mỗi
Xuy
[15]Có lẽ ông Nguyễn Hữu Doãn, làm thống suất
đánh dẹp các con Nặc Ông Thâm bốn năm về trước (1749). Sau vì thua ở đất Vô Tà
Ấn (?) bị giáng xuống chức cai đội nên bị bôi tên. Rồi sau sử chép cho là
khuyết tên họ chăng?
(Chú thích trong "Sãi Vãi", Lê Ngọc
Trụ, Phạm Văn Luật, trương 45.)
[16]Sông Lớn đây có lẽ là sông Vàm Cỏ, chảy
ngang qua phủ Lôi Lạp, Tầm Bôn, Ba Nam.
Ông Maybon, trong quyển
“Histoire moderne du pays d’Annam”, trang 127, đề là Vàm Cỏ Tây (Vaico
occidental).
[17]Năm phủ này đến đời
Thiệu Trị, năm 1847, bị giao trả lại cho nước Miên (chú thích trong quyển Sãi
Vãi.)
Xem tiếp phần 2
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét